Cách chia di sản thừa kế là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi sự thận trọng và công bằng trong việc xác định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan. Theo pháp luật Việt Nam, di sản thừa kế bao gồm tất cả tài sản hợp pháp của người chết, bao gồm cả tài sản để lại theo di chúc và tài sản không để lại theo di chúc. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số thông tin pháp lý cần thiết để chia di sản thừa kế một cách hợp lý và công bằng.
Việc chia di sản thừa kế là một quá trình phức tạp và nhạy cảm, có ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống gia đình và xã hội. Việc chia di sản thừa kế không chỉ là một vấn đề pháp lý, mà còn liên quan đến các yếu tố như tình cảm, trách nhiệm, công bằng và bình đẳng. Việc chia di sản thừa kế có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và hòa hợp của gia đình, bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các thành viên, cũng như góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã hội. Việc chia di sản thừa kế cũng có thể gây ra những mâu thuẫn và xung đột nếu không được thực hiện theo nguyên tắc và quy định của pháp luật, hoặc không phù hợp với mong muốn và lợi ích của các bên liên quan. Do đó, việc chia di sản thừa kế cần được tiến hành một cách cẩn thận, minh bạch và công khai, đảm bảo sự thỏa thuận và hài lòng của tất cả các bên.
Khi phân chia di sản theo pháp luật phải tuân theo trình tự và các nguyên tắc sau:
– Chia trước và chia hết cho những người thừa kế ở hàng thừa kế trước:
Như vậy, trước hết di sản phải được chia cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Nếu không còn ai hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ nhất vì đã chết trước, chết cùng thời điểm với người để lại di sản (mà không có người thừa kế thế vị), không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc họ đều từ chối nhận di sản thì di sản mới được chia cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai. Tương tự, nếu cũng không còn ai hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai thì di sản mới được chia cho những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ ba. Trong trường hợp di sản không có người nhận thừa kế thì di sản đó thuộc về Nhà nước.
– Di sản được chia đều cho những người cùng hàng thừa kế.
– Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới:
Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo quy định tại Khoản 1 Điều 662 Bộ luật Dân sự 2015.
Các trường hợp chia di sản thừa kế có thể được xem là trái pháp luật nếu vi phạm các quy định sau:
+ Không tuân theo hình thức thừa kế: Nếu di sản được chia mà không tuân theo hình thức thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật, thì có thể được xem là trái pháp luật.
+ Di chúc không hợp pháp: Nếu di chúc được sử dụng để chia di sản nhưng không hợp pháp, thì việc chia di sản theo di chúc đó có thể bị coi là trái pháp luật.
+ Không tuân theo hàng thừa kế: Nếu di sản được chia không tuân theo hàng thừa kế quy định trong pháp luật, thì việc chia di sản đó có thể bị coi là trái pháp luật.
+ Không tuân theo quy định về người hưởng thừa kế: Nếu di sản được chia cho những người không có quyền hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật, thì việc chia di sản đó có thể bị coi là trái pháp luật.
Trong trường hợp phát hiện việc chia di sản thừa kế trái pháp luật, người có quyền lợi liên quan có thể yêu cầu cơ quan tư pháp can thiệp để xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể, họ có thể khởi kiện đòi lại quyền lợi bị xâm phạm hoặc yêu cầu xem xét lại việc chia di sản.
-Quyền và nghĩa vụ của người phân chia di sản:
+ Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.
+ Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.
-Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
-Những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận về cử người quản lý di sản, quyền và nghĩa vụ của người này. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế chọn được người quản lý di sản.
Có một số loại tranh chấp thừa kế có thể xảy ra:
- Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc: Điều này thường xảy ra khi người thừa kế theo luật cảm thấy việc phân chia di sản theo di chúc sẽ ảnh hưởng đến quyền hưởng di sản theo luật của họ.
- Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc: Trong trường hợp này, người không phải là người thừa kế theo di chúc có thể tranh chấp quyền hưởng thừa kế.
- Tranh chấp tài sản thừa kế có di chúc: Điều này có thể xảy ra khi có sự không đồng nhất về hiệu lực của di chúc hoặc việc phân chia tài sản trong di chúc.
- Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản không đồng đều: Trong trường hợp này, một hoặc nhiều người thừa kế có thể không hài lòng với cách di sản được phân chia.
Ngoài ra, còn có các vấn đề khác như việc xác định người được và không được thừa kế, hoặc việc xác định hiệu lực của di chúc. Trong một số trường hợp, người thừa kế có thể từ chối nhận di sản.
Theo Khoản 1 Điều 660 Bộ luật Dân sự 2015, khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật Dân sự 2015.
Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
+ Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật Dân sự 2015;
+ Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu theo quy định.
Trên đây là thông tin giải đáp vướng mắc về cách chia di sản thừa kế NPLAW gửi đến Quý độc giả. Nếu Quý độc giả có bất kỳ vướng mắc nào liên quan cần giải đáp thêm, xin vui lòng liên hệ với NPLAW.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn