Từ lâu, hợp tác xã đã ra đời và mang theo vai trò của một mô hình tổ chức kinh tế, góp phần duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội nước ta. Do đó, giống như các tổ chức kinh tế khác, hợp tác xã về đầu tư kết cấu hạ tầng cũng được Nhà nước khuyến khích phát triển thông qua việc giao đất, cho thuê đất nhằm đáp ứng các nhu cầu hoạt động của mình. Vậy đất hợp tác xã là gì? Liệu đất của hợp tác xã có được chuyển nhượng hay không? Pháp luật có những quy định nào để điều chỉnh việc sử dụng đất hợp tác xã không? Trong phạm vi bài viết dưới đây, hãy cùng NPLaw tìm hiểu và làm rõ những vấn đề liên quan đến loại đất này.
Đất hợp tác xã được hiểu là đất mà hợp tác xã có được thông qua một trong các phương thức sau:
Thứ nhất là được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất và thứ hai là được Nhà nước cho thuê đất có thu tiền (hàng năm hoặc một lần cho cả thời gian thuê) đối với việc sử dụng đất đó. Ngoài ra, căn cứ theo Điều 177 Luật đất đai 2013, có thể thấy đất của hợp tác xã còn có thể có được thông qua phương thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ các thành viên thuộc hợp tác xã.
Như vậy, có thể nhận diện đất hợp tác xã bởi việc đất đó có được do Nhà nước giao, cho thuê hoặc do các thành viên của hợp tác xã tự góp vốn.
Theo Điểm a Khoản 2 Điều 48 Luật hợp tác xã 2012, thì quyền sử dụng đất của hợp tác xã do Nhà nước giao đất, cho thuê đất nằm trong một phần tài sản không chia. Tài sản không chia ở đây được hiểu là phần tài sản có được từ phần trợ cấp của Nhà nước, do đó sẽ không được chia nếu hợp tác xã giải thể. Theo đó, có thể thấy pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ hạn chế quyền của các thành viên hợp tác xã trong trường hợp họ chấm dứt tư cách thành viên đối với tổ chức, chứ không hề có sự hạn chế về quyền của hợp tác xã đối với quyền sử dụng đất bao gồm cả các quyền giao dịch. Ngoài ra, vì hợp tác xã cũng là một tổ chức kinh tế, do đó nếu thỏa mãn các điều kiện mà luật định về giao dịch quyền sử dụng đất, thì hợp tác xã vẫn được tiến hành như các tổ chức kinh tế khác. Các quyền đó có thể bao gồm:
Căn cứ theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 174 Luật đất đai 2013, thì hợp tác xã được phép cho thuê lại quyền sử dụng đất trong trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất và thu tiền thuê đất một lần tính cho cả thời gian thuê thì có quyền cho thuê lại quyền sử dụng đất đó. Miễn là việc cho thuê phải đảm bảo các điều kiện chung tại khoản 1 Điều 188 Luật đất đai 2013 đã đề cập trước đó.
Như đã phân tích ở trên, hợp tác xã có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong hai trường hợp. Nếu đất đó là đất do Nhà nước giao đất hoặc cho thuê để thực hiện các dự án đầu tư thì việc chuyển nhượng phải được thực hiện trong vòng 24 tháng kể từ khi dự án đó chấm dứt. Thứ hai, nếu đất đó thuộc sở hữu của hợp tác xã, do các thành viên góp vốn thì việc chuyển nhượng được thực hiện khi đáp ứng một số điều kiện chung về chuyển nhượng quyền sử dụng đất do pháp luật về đất đai quy định.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 191 Luật đất đai 2013 thì tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Bởi vì hợp tác xã được xem là một tổ chức kinh tế sử dụng đất, thế nên khi rơi vào một trong các diện nêu trên thì hợp tác xã sẽ không được nhận chuyển nhượng đất.
Căn cứ theo Điểm b khoản 2 Điều 177 Luật đất đai 2013, đất do các thành viên thuộc hợp tác xã góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng sẽ thuộc về hợp tác xã. Do đó, nếu không may hợp tác xã phá sản thì Nhà nước không được phép thu hồi mà sẽ được xử lý theo điều lệ riêng của hợp tác xã và nghị quyết đại hội thành viên.
Đây là trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền, tuy nhiên căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 19 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP dù đất được giao không đúng thẩm quyền nhưng nếu đất đó được sử dụng ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/07/2014, trong quá trình sử dụng không phát sinh tranh chấp nào và việc sử dụng đúng với nội dung quy hoạch của Nhà nước thì người đang sử dụng đất đó vẫn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, trường hợp đất được chính quyền thôn bán, được sử dụng ổn định từ năm 1997, xác nhận không xảy ra tranh chấp nào và việc sử dụng phù hợp với quy hoạch thì đương nhiên sẽ được phép cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 64 Luật đất đai 2013, đất hợp tác xã được Nhà nước giao để thành lập hợp tác xã nếu không được sử dụng trong vòng 12 tháng liên tục thì sẽ bị Nhà nước ra quyết định thu hồi.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn