Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến trong đời sống xã hội hiện đại. Tuy nhiên trên thực tế, khi xác lập các giao dịch dân sự, vì nhiều lý do khác nhau mà hợp đồng dân sự bị vô hiệu, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng. Vậy cần lưu ý gì về quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến hợp đồng vô hiệu? Hãy cùng Công ty Luật TNHH Ngọc Phú tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây.
Hợp đồng dân sự vô hiệu là những hợp đồng mà khi giao kết hoặc thực hiện không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc đối tượng hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Căn cứ vào quy định tại Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng dân sự vô hiệu.” Theo đó, có thể xác định hợp đồng dân sự vô hiệu theo các trường hợp cụ thể sau đây:
- Thứ nhất: Hợp đồng dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội. Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. Như vậy, về nguyên tắc, trong bất kể trường hợp nào, hợp đồng dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức xã hội thì vô hiệu.
- Thứ hai: Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo. Căn cứ Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015: “khi các bên xác lập giao xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn còn hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Có thể hiểu giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác. Giao dịch này được các bên xác lập trên cơ sở ý chí không đích thực, không có sự thống nhất giữa ý chí thực sự bên trong và bày tỏ ý chí thực sự ra bên ngoài. Do đó, giao dịch giả tạo bị xem là vô hiệu.
- Thứ ba: Căn cứ Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 Hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện. Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Năng lực hành vi dân sự là khả năng nhận thức hành vi, làm chủ hành vi của họ khi tham gia giao dịch dân sự. Năng lực hành vi của mỗi cá nhân lại phụ thuộc tình trạng về thể chất và nhận thức của mỗi cá nhân. Như vậy, tình trạng thể chất và nhận thức của cá nhân không đáp ứng được việc xác lập thực hiện hợp đồng tại thời điểm giao kết hợp đồng thì hợp đồng cũng có thể bị vô hiệu.
- Thứ tư: Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn. Căn cứ Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015 Hợp đồng bị nhầm lẫn là trường hợp khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng dân sự. Khi phát hiện hợp đồng bị nhầm lẫn thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu trừ trường hợp: Mục đích xác lập hợp đồng của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập hợp đồng vẫn đạt được.
- Thứ năm: Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Căn cứ Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015, Khi một bên tham gia hợp đồng do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng đó là vô hiệu. Lừa dối trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập hợp đồng đó. Đe dọa, cưỡng ép trong hợp đồng là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
- Thứ sáu: Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Căn cứ Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015 Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu. Ví dụ như: Tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng mà các bên hoặc một bên trong số các bên ký kết hợp đồng say rượu thì những hợp đồng được xác lập vào thời điểm này có thể không đáp ứng được điều kiện tự do ý chí. Do một hoặc cả hai bên chủ thể đã không đủ điều kiện để thể hiện được ý chí của mình. Tuy nhiên, thực tế chứng minh đối với các hợp đồng trên vô cùng phức tạp.
- Thứ bảy: Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. Điều 177 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận hình thức là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Khoản 2, Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định về hình thức giao dịch dân sự với nội dung: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.” Như vậy, có thể thấy không phải lúc nào hình thức cũng là điều kiện bắt buộc để cho hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Tức là hợp đồng chỉ bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức nếu trong Bộ luật Dân sự hoặc luật khác quy định cụ thể về hình thức xác lập hợp đồng đó.
- Cuối cùng: Hợp đồng dân sự do có đối tượng không thể thực hiện được. Căn cứ Khoản 1, Điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015, Hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
Thứ nhất: Về giá trị pháp lý của Hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu có hệ quả là: (1) không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ các bên kể từ thời điểm giao kết cho dù Hợp đồng đã được thực hiện trên thực tế hay chưa.
Thứ hai: Về mặt lợi ích vật chất. Khi Hợp đồng bị vô hiệu thì các bên phải khôi phục lại tình trạng bên đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qua định khác.
Thứ nhất: Bên có lỗi dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu có phải bồi thường không?
Căn cứ khoản 4 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Và bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Thứ hai: Giao dịch dân sự xác lập do sự nhầm lẫn không vô hiệu khi nào?
Căn cứ khoản 2 Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015, Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.
Căn cứ Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Dịch vụ tư vấn về hợp đồng tại Công ty Luật TNHH Ngọc Phú:
Trên đây là thông tin giải đáp vướng mắc về Hợp đồng dân sự vô hiệu mà NPLAW gửi đến Quý độc giả. Nếu Quý độc giả có bất kỳ vướng mắc nào liên quan cần giải đáp thêm, xin vui lòng liên hệ với NPLAW theo thông tin liên hệ sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Địa chỉ:
- Văn phòng Hồ Chí Minh: 139H4 Lý Chính Thắng, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
- Văn phòng Nha Trang: Số 3M, tầng trệt chung cư CT2, khu đô thị Phước Hải, đường Tố Hữu, TP. Nha Trang, Khánh Hòa.
- Văn phòng Hà Nội: Tầng 10, Tòa nhà Ford Thăng Long, 105 Láng Hạ, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Hotline: 0913449968
Email: legal@nplaw.vn
Website: nplaw.vn
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn