Hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp tuy không phải là hợp đồng kinh doanh thường xuyên trong doanh nghiệp, nhưng cũng là một dạng hợp đồng phổ biến liên quan đến tài sản và tìm kiếm lợi nhuận được doanh nghiệp quan tâm. Thông qua bài viết này, NPLaw xin gửi đến Quý độc giả một số thông tin pháp lý liên quan đến hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính thức về số lượng, giá trị và các điều khoản cụ thể của hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp tại Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, việc doanh nghiệp đi vay để bổ sung vốn, bù đắp khoản vốn thiếu hụt tạm thời (khi tiền bán hàng hóa, sản phẩm chưa kịp thanh toán hết, hoặc khi vốn tiền mặt hiện đang ở dưới dạng hàng hóa …) là một điều diễn ra phổ biến. Theo Khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (NS SMEs): Năm 2022, 62% doanh nghiệp cho biết đã từng vay vốn từ doanh nghiệp khác. Năm 2023, 65% doanh nghiệp cho biết đã từng vay vốn từ doanh nghiệp khác. Điều này kéo theo nhu cầu lớn đối với đa dạng các hình thức vay, tương với với đa dạng các mục đích vay, dẫn đến đòi hỏi có các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các doanh nghiệp trong việc xác lập, điều chỉnh và giải quyết quan hệ vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hay còn gọi là Hợp đồng cho vay tài sản giữa các doanh nghiệp là thỏa thuận giữa các bên là doanh nghiệp, theo đó bên cho vay giao tài sản (tiền hoặc tài sản khác) cho bên vay sử dụng, và bên vay cam kết hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và có thể kèm theo lãi suất nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Nhìn nhận một cách khái quát, quan hệ vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp là quan hệ dân sự được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. Trong đó, chủ thể vay và cho vay đều là các doanh nghiệp, không có chức năng cấp tín dụng theo quy định pháp luật.
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có thể vay, cho vay tiền giữa các doanh nghiệp. Những hình thức cho vay, và vay tiền của các doanh nghiệp được thể hiện dưới các hình thức như:
- Mua hàng trả chậm, trả góp (là trường hợp bên mua đã nhận tài sản mua bán và phải thanh toán tiền mua sau một thời hạn nhất định hoặc thanh toán thành nhiều đợt theo thỏa thuận của các bên)
– Vay có lãi (là việc doanh nghiệp có khoản tiền nhàn rỗi, không thực hiện thường xuyên, có thể sử dụng khoản vốn này cho doanh nghiệp khác vay và thu lãi)
– Vay không có lãi (là việc doanh nghiệp có khoản tiền nhàn rỗi, không thực hiện thường xuyên, có thể sử dụng khoản vốn này cho doanh nghiệp khác vay và không lấy lãi, không thực hiện kinh doanh khoản vốn nhàn rỗi này)
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp vay một doanh nghiệp khác là tổ chức tín dụng thì hình thức vay sẽ được xác định theo Luật Các tổ chức tín dụng 2024 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Như vậy, việc cho vay giữa hai doanh nghiệp là hoàn toàn hợp pháp nếu việc cho vay đó không diễn ra thường xuyên và không mang tính chất kinh doanh.
Hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Khi làm hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, dù trên góc độ là bên cho vay hay bên vay, doanh nghiệp đều cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Căn cứ theo Điều 4 Thông tư số 09/2015/TT-BTC quy định về hình thức thanh toán trong giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng như sau:
"1. Các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng (là các doanh nghiệp không thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng) khi thực hiện các giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau sử dụng các hình thức thanh toán được quy định tại khoản 2 Điều 3 Thông tư này.
2. Các doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng khi thực hiện giao dịch vay, cho vay và trả nợ vay lẫn nhau bằng tài sản (không phải bằng tiền), đối trừ công nợ, chuyển giao nghĩa vụ nợ thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp."
Như vậy, các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng không được sử dụng tiền mặt khi thanh toán khoản tiền vay từ doanh nghiệp khác.
Căn cứ tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác vay như sau:
“… 4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác vay không có lãi, nếu đến hạn mà bên vay không thực hiện trả nợ, nếu các bên không có thỏa thuận khác và luật không có quy định khác thì bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tiền lãi.
Hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp có thể xảy ra tranh chấp trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng thường gặp nhất là các trường hợp:
Ngoài ra, hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp cũng có thể xảy ra tranh chấp do những lý do khác như bất khả kháng, vi phạm pháp luật, v.v.
Trên cả cương vị là doanh nghiệp cho vay hay doanh nghiệp đi vay, Quý độc giả đều nên cân nhắc liên hệ hỗ trợ bởi luật sư có kinh nghiệm nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Liên quan đến nội dung này, Công ty Luật TNHH Ngọc Phú với bề dày kinh nghiệm trong đa dạng lĩnh vực, với hệ thống văn phòng trên nhiều tỉnh thành, sẽ hỗ trợ, tư vấn cho Quý Khách hàng các vấn đề liên quan đến hợp đồng vay giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Quý độc giả có thể liên hệ ngay tới NPLaw để được các luật sư dày dặn kinh nghiệm của NPLaw tư vấn tận tình và nhanh chóng với thông tin liên hệ dưới đây:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn