Trong quan hệ vay, việc không trả nợ là rủi ro mà người cho vay không mong muốn xảy ra. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người cho vay thường cho xu hướng dự phòng rủi ro trước tình huống người vay không trả nợ. Hiểu được nhu cầu đó, thông qua bài viết này, NPLaw xin gửi đến Quý độc giả bài viết pháp lý về các quy định liên quan đến việc không trả nợ.
Hiện không ít người đi vay chỉ nghĩ làm sao để đạt được vế đầu, nhưng việc thực hiện vế sau thì bỏ ngỏ. Việc không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ, lần lừa việc trả nợ, thậm chí tìm cách trốn nợ… của người đi vay đã đẩy người cho vay vào thế khó, đồng thời cũng đánh mất lòng tin của người cho vay đối với chính họ.
Qua các năm, theo thống kê của ngành Tòa án, số tranh chấp liên quan đến vay nợ và không thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay ngày chưa từng có dấu hiệu hạ nhiệt. Việc này gây nên những tổn thất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến người cho vay. Chính vì vậy, trước khi cho vay, người cho vay luôn mong muốn tìm hiểu kỹ các quy định liên quan nhằm bảo vệ quyền lợi cho chính mình.
Nghĩa vụ trả nợ của bên vay tại Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định chi tiết tại Bộ luật Dân sự 2015.
(Chèn hình (1))
Theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm dân sự khi không trả nợ như sau:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác".
Theo đó, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ được xác định theo trường hợp vay khác nhau, có lãi hoặc không có lãi.
3. Xử lý hành vi không trả nợ dưới góc độ hình sự
Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
"1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."
Như vậy, nếu vay tiền mà không trả nợ vay, thì có dấu hiệu phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định nêu trên.
Trong trường hợp, bên vay cố tình không trả nợ, mà các bên không có giấy tờ vay thì bên cho vay vẫn có thể khởi kiện ra tòa án theo Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:
"Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình."
Quy định này ghi nhận bên cho vay có thể khởi kiện khi cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm mà không ràng buộc phải tồn tại giấy tờ vay. Tuy nhiên, để đơn khởi kiện được thụ lý giải quyết, cần phải có chứng cứ chứng minh tồn tại giao dịch vay tiền theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để chứng minh yêu cầu khởi kiện có căn cứ.
Khi cho vay, nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mình, người cho vay cần lưu ý một số vấn đề sau:
Trong trường hợp của chị, chị A đang có dấu hiệu không trả nợ cho chị. Theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, chị xác định lại việc chị A vay tiền có lãi hay không và có thể khởi kiện chị A đến Tòa án nhân dân để đòi lại tài sản.
Theo thông tin chị cung cấp, giữa chị và chị A có giấy vay tiền, chị có liên hệ nhắc chị A thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Do đó, khi tiến hành nộp đơn khởi kiện lên Tòa án, chị nên nộp kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc chị A vay nhưng không trả nợ như: Giấy vay tiền, các tin nhắn nhắc trả nợ, tin nhắn hẹn trả nhiều lần của chị A.
Nếu đến hạn trả nợ nhưng bên vay không trả, có thể xảy ra một trong hai trường hợp như sau:
+ Trường hợp 1: Bên vay không trả nợ do không có khả năng chi trả và không có dấu hiệu bỏ trốn hay dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì đây sẽ là tranh chấp dân sự. Để đòi lại được tiền, bên cho vay có thể đến Tòa án để thực hiện thủ tục kiện đòi tài sản.
+ Trường hợp 2: Nếu bên vay có thể trả nợ nhưng không trả mà cố tình dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Cụ thể, tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 quy định các hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Như vậy, vay tiền mà không trả sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội có thể bị phạt tù đến 20 năm, phạt tiền đến 100 triệu.
(Chèn hình (2))
Vay tiền là giao dịch dân sự thỏa thuận giữa các bên, khi đến hạn trả thì bên vay phải có nghĩa vụ trả nợ. Về nguyên tắc, nghĩa vụ trong giao dịch dân sự chỉ ràng buộc các bên tham gia quan hệ dân sự đó.
Theo Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bảo lãnh thì: Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Do đó, khi đến hạn mà bên vay tiền trốn, không trả nợ thì người thân của bên vay không có nghĩa vụ phải trả nợ, trừ trường hợp người thân của bên vay tiền có cam kết bảo lãnh. Người cho vay không có cơ sở chắc chắn về việc đến đòi nợ đối với người thân của người vay nợ đã bỏ trốn.
Theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về trách nhiệm dân sự khi không trả nợ như sau:
“4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác".
Như vậy, trường hợp người vay nợ không trả nợ đúng hạn, bên cho vay có thể khởi kiện và đòi lãi suất theo quy định pháp luật.
(Chèn hình (3))
Hiểu được nhu cầu tìm hiểu quy định liên quan đến không trả nợ của Quý Khách hàng, Công ty Luật TNHH Ngọc Phú sẽ hỗ trợ, tư vấn cho Quý Khách hàng các quy định pháp lý liên quan đến việc không trả nợ. Công ty Luật TNHH Ngọc Phú với kinh nghiệm cung cấp dịch vụ pháp lý dày dặn tin rằng sẽ đem lại cho khách hàng sự an tâm và hài lòng khi sử dụng dịch vụ của chúng tôi. Quý độc giả có thể liên hệ ngay tới NPLaw để được các luật sư dày dặn kinh nghiệm của NPLaw tư vấn tận tình và nhanh chóng với thông tin liên hệ dưới đây:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Hotline: 0913449968
Email: legal@nplaw.vn
Rất mong được hợp tác với Quý Khách hàng.
Trân trọng cảm ơn!
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn