Công bố tác phẩm là đưa ra công khai tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học để cho mọi người biết dưới các hình thức như- xuất bản, trưng bày, biểu diễn, thuyết trình... hoặc đăng ký tác phẩm đó tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Nhu cầu công bố tác phẩm hiện nay vẫn là một yếu tố quan trọng trong cộng đồng văn hóa và nghệ thuật. Với sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng internet, việc công bố tác phẩm không chỉ giúp tác giả tiếp cận với độc giả một cách nhanh chóng và rộng rãi hơn mà còn tạo ra các cơ hội mới để tương tác và phản hồi từ phía độc giả.
Công bố tác phẩm cũng là một phần quan trọng của quy trình sáng tạo và sự phát triển nghệ thuật. Nó giúp tác giả nhận được sự công nhận và phản hồi từ cộng đồng, từ đó cải thiện và phát triển kỹ năng sáng tác của mình. Đồng thời, việc công bố tác phẩm cũng là cách để bảo vệ quyền lợi của tác giả và đảm bảo rằng công lao của họ được công nhận và đền đáp đúng mức.
Căn cứ khoản 9 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định 9. Tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố là tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan để phổ biến đến công chúng bản sao dưới bất kỳ hình thức nào với số lượng hợp lý.
Công bố tác phẩm có một số lợi ích quan trọng:
- Chia sẻ ý tưởng và kiến thức: Công bố tác phẩm cho phép tác giả chia sẻ ý tưởng, thông tin, và kiến thức của mình với độc giả hoặc cộng đồng. Điều này giúp lan truyền thông điệp và giá trị một cách rộng rãi;
- Góp phần vào thảo luận và phát triển: Bằng cách công bố, tác giả có cơ hội nhận phản hồi từ độc giả và cộng đồng. Phản hồi này có thể giúp tác giả cải thiện và phát triển tác phẩm của mình thông qua sự thảo luận và trao đổi ý kiến;
- Bảo vệ quyền lợi và sở hữu trí tuệ: Công bố tác phẩm cũng có thể giúp bảo vệ quyền lợi và sở hữu trí tuệ của tác giả bằng cách tạo ra bằng chứng về ngày tạo ra và ý tưởng gốc của tác phẩm;
- Xây dựng danh tiếng và thương hiệu cá nhân: Công bố tác phẩm là một cách để tác giả xây dựng danh tiếng và thương hiệu cá nhân. Điều này có thể giúp tạo ra cơ hội nghề nghiệp và tăng khả năng thu hút độc giả và sự chú ý từ công chúng;
- Thúc đẩy sự phát triển cá nhân: Việc công bố tác phẩm có thể thúc đẩy sự phát triển cá nhân của tác giả thông qua việc chia sẻ và giao tiếp với độc giả và cộng đồng, cũng như thông qua việc tiếp nhận phản hồi và học hỏi từ người khác.
Hiện nay Luật Sở hữu trí tuệ chưa quy định cụ thể các hình thức công bố tác phẩm. Hình thức công bố tác phẩm được thể hiện qua nhiều cách thức khác nhau. Dưới đây là các hình thức công bố tác phẩm phổ biến hiện nay:
- Xuất bản là hình thức công bố tác phẩm phổ biến nhất. Sách có thể được xuất bản dưới dạng sách bìa mềm, bìa cứng hoặc sách điện tử.
- Xuất bản điện tử là việc xuất bản sách ở định dạng kỹ thuật số. Sách điện tử có thể được đọc trên các thiết bị như máy đọc sách điện tử, máy tính bảng và điện thoại thông minh.
- Bản in là một hình thức công bố tác phẩm truyền thống liên quan đến việc tạo ra các bản sao vật lý của tác phẩm. Các bản in có thể được tạo ra bằng cách sử dụng máy in hoặc máy in.
- Bản ghi âm là một bản ghi âm thanh của tác phẩm. Các bản ghi âm có thể được tạo ra trên băng cassette, đĩa CD hoặc tệp kỹ thuật số.
- Bản ghi hình là bản ghi video của tác phẩm. Các bản ghi hình có thể được tạo ra trên băng VHS, DVD hoặc tệp kỹ thuật số.
- Biểu diễn là một cách để chia sẻ tác phẩm của bạn với khán giả trực tiếp. Các tác phẩm có thể được biểu diễn trong các nhà hát, câu lạc bộ hài kịch, quán cà phê và các địa điểm khác.
- Triển lãm là một cách để chia sẻ tác phẩm nghệ thuật của bạn với công chúng. Các tác phẩm nghệ thuật có thể được trưng bày trong các phòng trưng bày, bảo tàng và các không gian khác.
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Trong đó, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
(Khoản 1 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019))
Ngoài ra Theo khoản 3 Điều 14 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định thì quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
Như vậy, chủ thể có quyền công bố tác phẩm là tác giả tác phẩm, người mà tác giả cho phép công bố sản phẩm.
Theo khoản 3 Điều 14 Nghị định 17/2023/NĐ-CP quy định về quyền nhân thân như sau:
Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phát hành bản sao tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào với số lượng hợp lý đủ để công chúng tiếp cận được tùy theo bản chất của tác phẩm, do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
Có thể thấy người khác không phải tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm vẫn được quyền công bố tác phẩm nhưng phải có sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm và phải trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
Về xử phạt hành chính đối với hành vi tự ý sao chép tác phẩm. Theo Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP, người thực hiện hành vi sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, người vi phạm còn bị buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm. Một điều lưu ý là mức tiền phạt này áp dụng đối với cá nhân, mức tiền phạt đối với tổ chức cho hành vi này sẽ gấp 02 lần khung phạt tiền cho cá nhân.
Hơn nữa, người thực hiện hành vi sao chép tác phẩm còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan theo Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2017)
Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng các quyền nhân thân tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Trong đó, không bao gồm khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
Do đó, tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền công bố tác phẩm.
Theo khoản 7 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009, được sửa đổi bởi khoản 7 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022:
Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:
a) Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức tiền bản quyền và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố, tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ;
b) Trường hợp tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm đó theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chính phủ quy định chi tiết các hoạt động kinh doanh, thương mại quy định tại điểm này.
Trên đây là những thông tin xoay quanh đề tài công bố tác phẩm. Để có thể được hỗ trợ cũng như tìm hiểu thông tin, quy định của pháp luật về công bố tác phẩm, Quý khách có thể liên hệ NPLaw để được tư vấn bởi đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn