Đất đai được xem là nguồn tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá và quan trọng, là tư liệu sản xuất đặc biệt và là nhân tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn là nguồn lực to lớn để phát triển đất nước. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhất, các quan hệ đất đai tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến phát triển kinh tế xã hội; chính sách, pháp luật về đất đai có vai trò quan trọng góp phần ổn định chính trị xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng lên, nhất là cho các mục đích phi nông nghiệp gây ra áp lực không nhỏ đến tài nguyên đất, đòi hỏi phải sử dụng đất tiết kiệm và hiệu quả.
Thế nhưng công tác quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, việc sử dụng đất còn nhiều sai phạm lãng phí, tình trạng lấn chiếm đất đai diễn ra nhiều. Bài viết dưới đây NPLAW xin đi sâu phân tích quy định của pháp luật về lấn chiếm đất đai, quý độc giả có thể tham khảo.
Trong thời gian qua, tình trạng lấn chiếm đất đai và xây dựng các công trình trái phép vẫn còn xảy ra rất phổ biến tại nhiều địa phương khác nhau trên địa bàn cả nước, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế trong lĩnh vực đất đai, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Vì vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tăng cường thanh tra kiểm tra, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm. Tăng cường chỉ đạo, kịp thời giải quyết triệt để những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai ngay từ cơ sở, tránh khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp. Tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất; xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai. Thường xuyên tự kiểm tra, rà soát, khắc phục, sửa chữa, không để lập lại các hạn chế, thiếu sót, sai phạm đã được kết luận qua các cuộc thanh tra của cấp trên trong công tác cấp giấy chứng nhận, chuyển mục đích sử dụng đất, tách thửa... và những hạn chế, thiếu sót trong công tác lập, cập nhật, chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính trong thời gian tới.
Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Nghị định 91/2019/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 04/2022/NĐ-CP có thể hiểu lấn chiếm đất đai như sau:
(1) Lấn đất là việc người sử dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép.
(2) Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp:
+ Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép.
+ Tự ý sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà không được tổ chức, cá nhân đó cho phép.
+ Sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê đất đã hết thời hạn sử dụng mà không được Nhà nước gia hạn sử dụng, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng đất nông nghiệp.
+ Sử dụng đất trên thực địa mà chưa hoàn thành các thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.
Căn cứ tại Điều 14 Nghị định 91/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm đối với hành vi lấn chiếm đất như sau:
(1) Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau:
+ Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta;
+ Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta;
+ Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta;
+ Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta;
+ Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên.
(2) Trường hợp lấn, chiếm đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau:
+ Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta;
+ Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta;
+ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta;
+ Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta;
+ Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên.
Theo đó, căn cứ vào loại đất bị lấn chiếm và diện tích đất bị lấn chiếm để xác định mức xử phạt hành chính đối với hành vi lấn chiếm đất đai theo quy định như trên. Và ngoài việc bị xử phạt hành chính, tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi lấn chiếm đất đai còn buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả.
Chú ý, mức xử phạt hành chính theo quy định trên chỉ áp dụng đối với cá nhân vi phạm, trường hợp tổ chức vi phạm thì mức xử phạt hành chính sẽ gấp 02 lần cá nhân.
Hành vi lấn chiếm đất đai hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017) khi thỏa mãn cấu thành của tội phạm này, xâm phạm đến khách thể do pháp luật hình sự bảo vệ. Theo đó:
Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ngoài ra, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
+ Có tổ chức;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Như vậy, nếu như đã bị xử phạt hành chính về hành vi lấn chiếm đất đai mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi lấn chiếm đất đai thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ 6 tháng đến 3 năm tù.
Căn cứ theo Điều 236 Luật Đất đai năm 2024 có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó:
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp hoặc một trong các bên tranh chấp có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai năm 2024 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án giải quyết.
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai năm 2024 thì các bên tranh chấp được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
+ Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024;
+ Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy, người bị lấn chiếm đất đai hoàn toàn có thể khởi kiện hàng xóm lên Tòa án yêu cầu trả lại đất trong trường hợp hòa giải không thành công.
Khi bị lấn chiếm đất đai thì nên làm những điều sau đây:
Thứ nhất, cần xác định rõ diện tích, vị trí, ranh giới, mốc giới của đất đai của mình theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ liên quan. Các giấy tờ liên quan khi đất đai bị lấn chiếm bao gồm những gì sau đây:Sổ hộ khẩu của người làm đơn kiện lấn chiếm đất (bản sao); căn cước công dân/hộ chiếu/chứng minh nhân dân của người làm đơn kiện lấn chiếm đất (bản sao); Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ liên quan khác để chứng minh quyền sở hữu đất đai của mình; Các bằng chứng về đối tượng, tổ chức thực hiện hành vi lấn chiếm đất, như video, hình ảnh, đoạn chat, người làm chứng…
Thứ hai, cần thương lượng, hòa giải với người lấn chiếm đất để yêu cầu họ trả lại phần đất bị lấn chiếm. Bạn có thể nhờ sự can thiệp của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban giải quyết tranh chấp đất đai, tổ dân phố, thôn, bản, ấp hoặc các tổ chức xã hội để hỗ trợ việc hòa giải
Thứ ba, nếu việc hòa giải không thành công, bạn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất bị lấn chiếm. Bạn cần nộp đơn khởi kiện kèm theo các giấy tờ, chứng cứ chứng minh quyền sở hữu đất đai của mình và việc bị lấn chiếm đất. Bạn cần theo dõi quá trình xử lý vụ án và thực hiện các quyết định của Tòa án.
Thứ tư, nếu bạn cho rằng quyết định của Tòa án sơ thẩm không đúng, bạn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Bạn cần nộp đơn kháng cáo kèm theo các lý do, chứng cứ để bác bỏ quyết định sơ thẩm. Bạn cần chấp hành quyết định của Tòa án phúc thẩm, trừ khi có quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền.
Phần đất chiếm lấn chiếm chưa sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 sẽ giải quyết theo quy định tại Điều 139 Luật Đất đai năm 2024. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với đất do lấn chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng (khoản 1 Điều 139 Luật Đất đai năm 2024):
+ Trường hợp sử dụng đất do lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng sau khi Nhà nước đã công bố, cắm mốc hành lang bảo vệ hoặc lấn, chiếm lòng đường, lề đường, vỉa hè sau khi Nhà nước đã công bố chỉ giới xây dựng hoặc lấn đất, chiếm đất sử dụng cho mục đích xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp, công trình công cộng khác thì Nhà nước thu hồi đất để trả lại cho công trình mà không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với diện tích đất đã lấn, chiếm.
+ Trường hợp đã có điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm không còn thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng; không thuộc chỉ giới xây dựng đường giao thông; không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp và công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đối với trường hợp sử dụng đất do lấn đất, chiếm đất có nguồn gốc nông, lâm trường (khoản 2 và khoản 3 Điều 139 Luật Đất đai năm 2024):
- Trường hợp sử dụng đất do lấn đất, chiếm đất có nguồn gốc nông, lâm trường đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các đối tượng qua các thời kỳ thì xử lý như sau:
+ Trường hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao cho Ban quản lý rừng quản lý, sử dụng đất. Người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Ban quản lý rừng xem xét khoán bảo vệ, phát triển rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp. Trường hợp không có Ban quản lý rừng thì người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ và được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
+ Trường hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao đất cho chủ đầu tư khi triển khai xây dựng công trình đó. Người đang sử dụng đất vi phạm được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất nhưng phải giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định;
+ Trường hợp lấn đất, chiếm đất và nay đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc làm nhà ở từ trước ngày 01/7/2014, không thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, không thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất do lấn đất, chiếm đất không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì xử lý như sau:
+ Trường hợp người đang sử dụng đất ổn định, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện hoặc quy hoạch chung hoặc quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
+ Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản này thì người đang sử dụng đất được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định.
Thứ ba, đất nông nghiệp do tự khai hoang thì được cấp sổ đỏ theo hạn mức giao đất nông nghiệp (khoản 4 và khoản 5 Điều 139 Luật Đất đai năm 2014):
+ Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang, không có tranh chấp thì được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo hạn mức giao đất nông nghiệp do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định; nếu vượt hạn mức do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định thì diện tích vượt hạn mức phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước.
+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này kể từ ngày 01/7/2014 trở về sau thì Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 34 Nghị định 166/2013/NĐ-CP quy định như sau:
+ Trường hợp cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế về việc tháo dỡ, di chuyển công trình xây dựng trái phép hoặc bàn giao đất mà trong công trình và trên đất đó có tài sản không thuộc diện phải cưỡng chế thì người tổ chức cưỡng chế có quyền buộc cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế và những người khác có mặt trong công trình ra khỏi công trình hoặc khu vực đất, đồng thời yêu cầu họ tự chuyển tài sản ra theo. Nếu họ không tự nguyện thực hiện thì người tổ chức cưỡng chế yêu cầu lực lượng cưỡng chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi công trình hoặc khu vực đất đó;
+ Nếu họ từ chối nhận tài sản, người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ số lượng, chủng loại, tình trạng từng loại tài sản và thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để trông giữ, bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan ra quyết định cưỡng chế và thông báo địa điểm, thời gian để cá nhân, tổ chức có tài sản nhận lại tài sản. Cá nhân, tổ chức có tài sản phải chịu các chi phí vận chuyển, trông giữ, bảo quản tài sản;
+ Quá thời hạn 06 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo đến nhận tài sản mà cá nhân, tổ chức có tài sản không đến nhận thì tài sản đó được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí cho việc vận chuyển, trông giữ, bảo quản, xử lý tài sản sẽ được gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn tại tổ chức tín dụng và thông báo cho cá nhân, tổ chức có tài sản biết để nhận khoản tiền đó. Đối với tài sản hư hỏng và không còn giá trị, người tổ chức cưỡng chế tổ chức tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ hiện trạng của tài sản trước khi tiêu hủy.
Theo đó, nếu không tự nguyện tháo dỡ hàng rào xây dựng lấn chiếm lối đi chung thì sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định pháp luật.
Đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà có thể được xem là hành vi lấn chiếm đất đai khi thuộc trường hợp sau: Đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà thuộc phần đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà không được tổ chức, cá nhân đó cho phép.
Như vậy, chỉ được đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà trên phần đất thuộc sở hữu của mình, cần phải đo đạc để chừa ra một phần diện tích đất để làm sân hoặc khoảng trống để đặt chậu cây cảnh, khi đó sẽ không bị xem là hành vi lấn chiếm đất đai.
Mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi lấn chiếm đất đai được quy định tại Điều 14 Nghị định 91/2019/NĐ-CP (sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 04/2022/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà sẽ không chiếm quá nhiều diện tích, cho nên đối với hành vi đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà mà lấn chiếm phần đất công hoặc đất của người khác thì có thể bị xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng (đối với khu vực nông thôn). Trường hợp việc đặt chậu cây cảnh trước cửa nhà (lấn chiếm đất đai) xảy ra ở khu vực đô thị mức xử thì có thể bị xử phạt từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng.
Bên cạnh đó, người vi phạm còn phải dẹp bỏ những chậu cây cảnh để hoàn trả lại phần đất mà mình đã lấn chiếm như ban đầu.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ là đơn vị có kinh nghiệm trong việc tư vấn, thực hiện thủ tục liên quan đến lấn chiếm đất đai:
Trên đây là thông tin giải đáp vướng mắc có liên quan đến lấn chiếm đất đai mà công ty NPLAW gửi đến quý độc giả. Nếu quý độc giả có bất kỳ vướng mắc nào liên quan cần giải đáp thêm, xin vui lòng liên hệ với NPLAW theo thông tin liên hệ sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn