Trong các vụ án dân sự, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung khi giải quyết yêu cầu của đương sự
Tranh chấp đòi lại tài sản là một trong những loại tranh chấp dân sự phổ biến hiện nay. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trong giai đoạn 2021-2022, số vụ tranh chấp đòi lại tài sản chiếm khoảng 10% tổng số vụ tranh chấp dân sự thụ lý.
Tranh chấp đòi lại tài sản là một loại tranh chấp dân sự, trong đó chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản đó.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tranh chấp đòi lại tài sản là tranh chấp giữa các chủ thể về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền chiếm hữu tài sản.
-Các loại tranh chấp đòi lại tài sản thường gặp bao gồm:
+ Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
+ Tranh chấp về quyền sử dụng tài sản
+ Tranh chấp về quyền chiếm hữu tài sản
Ngoài ra, còn có các loại tranh chấp đòi lại tài sản khác như: tranh chấp về hợp đồng mua bán, tranh chấp về hợp đồng thuê tài sản, tranh chấp về thừa kế tài sản,...
Cụ thể, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp đòi lại tài sản được quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau:
-Thẩm quyền theo cấp xét xử
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản mà giá trị tranh chấp không quá 200 triệu đồng.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản mà giá trị tranh chấp vượt quá 200 triệu đồng.
-Thẩm quyền theo lãnh thổ
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nơi có tài sản là nơi có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Trường hợp tài sản ở nước ngoài thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi nguyên đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng về thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định, không áp dụng thời hiệu đối với trường hợp sau: “yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu; tranh chấp quyền sử dụng đất...”.
Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền sở hữu, đòi lại tài sản thì tòa án không áp dụng thời hiệu khởi kiện, không phụ thuộc vào việc một bên hoặc các bên có hay không có yêu cầu áp dụng thời hiệu…
Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất là tranh chấp giữa các bên trong đó một bên cho rằng mình có quyền sử dụng đất hợp pháp nhưng bị bên kia chiếm giữ, sử dụng trái phép. Bên có quyền sử dụng đất có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên chiếm giữ, sử dụng trái phép phải trả lại quyền sử dụng đất cho mình, quyền sử dụng đất là một loại tài sản. Do đó, tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất là một loại tranh chấp đòi lại tài sản.
Quyền khởi kiện đối với tranh chấp đòi lại tài sản phát sinh khi người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Trên đây là những thông tin xoay quanh đề tài tranh chấp đòi lại tài sản. Để có thể được hỗ trợ cũng như tìm hiểu thông tin, quy định của pháp luật về tranh chấp đòi lại tài sản, Quý khách có thể liên hệ NPLaw để được tư vấn bởi đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn