QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ

Trong môi trường kinh doanh hiện nay, việc các doanh nghiệp hoặc cá nhân tham gia vào các giao dịch thương mại quốc tế hoặc nội địa ngày càng trở nên phổ biến. Một trong những công cụ pháp lý hỗ trợ các bên trong việc thực hiện giao dịch hàng hóa là hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Trong bài viết dưới đây, NPLaw sẽ phân tích một số quy định về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa theo quy định hiện hành. Mời bạn đọc cùng theo dõi.

Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là một hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại hiện nay. Việc ủy thác mua bán giúp các bên có thể thông qua một chủ thể khác để thực hiện giao dịch mà không cần phải trực tiếp tham gia toàn bộ quá trình. Thay vào đó, bên nhận ủy thác sẽ thực hiện giao dịch thay mặt cho bên ủy thác, giảm bớt gánh nặng và chi phí cho các bên ủy thác, đồng thời tối ưu hóa quy trình mua bán. Đồng thời, hợp đồng ủy thác giúp tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, nhất là khi bên ủy thác chưa có kinh nghiệm hoặc năng lực để thực hiện các giao dịch này.

Theo Điều 155 Luật thương mại 2005: “Uỷ thác mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác”.

Như vậy, có thể hiểu hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là thỏa thuận giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác về việc thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa. Bên nhận ủy thác sẽ đại diện cho bên ủy thác để tiến hành giao dịch với bên thứ ba và thực hiện dưới danh nghĩa của bên nhận ủy thác. 

Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa là gì

2. Các bên trong hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá có quyền và nghĩa vụ thế nào?

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng ủy thác được quy định tại các điều 162 đến 165 Luật thương mại 2005 như sau:

Bên ủy thác:

Quyền:

  • Yêu cầu bên nhận uỷ thác thông báo đầy đủ về tình hình thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Không chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận uỷ thác vi phạm pháp luật, trừ trường hợp liên đới chịu trách nhiệm quy định tại khoản 4 Điều 163 của Luật này.

Nghĩa vụ:

  • Cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Trả thù lao uỷ thác và các chi phí hợp lý khác cho bên nhận ủy thác;
  • Giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận;
  • Liên đới chịu trách nhiệm trong trường hợp bên nhận uỷ thác vi phạm pháp luật mà nguyên nhân do bên uỷ thác gây ra hoặc do các bên cố ý làm trái pháp luật.

Bên nhận ủy thác:

Quyền:

  • Yêu cầu bên uỷ thác cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Nhận thù lao uỷ thác và các chi phí hợp lý khác;
  • Không chịu trách nhiệm về hàng hoá đã bàn giao đúng thoả thuận cho bên uỷ thác.

Nghĩa vụ:

  • Thực hiện mua bán hàng hoá theo thỏa thuận;
  • Thông báo cho bên uỷ thác về các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Thực hiện các chỉ dẫn của bên uỷ thác phù hợp với thoả thuận;
  • Bảo quản tài sản, tài liệu được giao để thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Giữ bí mật về những thông tin có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng uỷ thác;
  • Giao tiền, giao hàng theo đúng thoả thuận;
  • Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên ủy thác, nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra.

3. Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hóa bắt buộc phải lập thành văn bản đúng không? 

Điều 159 Luật thương mại 2005 quy định về hợp đồng ủy thác như sau: “Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”.

Theo khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005, các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa không bắt buộc phải lập thành văn bản, các bên có thể lập hợp đồng bằng hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản như điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu... theo quy định nêu trên.

 Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hóa bắt buộc phải lập thành văn bản đúng không? 

III. Giải đáp một số câu hỏi về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa

1. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa chi tiết gồm những nội dung nào? Nội dung nào quan trọng nhất? Tại sao?

Hiện nay không có quy định bắt buộc về nội dung của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Thông thường, hợp đồng này sẽ bao gồm các nội dung cơ bản như sau:

  • Thông tin của các bên.
  • Mô tả hàng hóa mua bán.
  • Thù lao ủy thác, các chi phí phát sinh và thanh toán.
  • Thời gian, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng.
  • Quyền và nghĩa vụ của các bên.
  • Trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm.
  • Giải quyết tranh chấp.

Trong đó, các điều khoản mô tả hàng hóa, thù lao và thời gian, địa điểm thực hiện hợp đồng là các nội dung quan trọng và thường xảy ra tranh chấp nhất trên thực tế. Điều khoản này giúp các bên xác định rõ ràng đối tượng của hợp đồng, thù lao và cách thức thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh các nội dung này, các điều khoản khác (quyền, nghĩa vụ các bên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm...) cũng rất cần thiết để bảo đảm tốt nhất quyền lợi các bên trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng.

Vì vậy, khi soạn thảo hợp đồng, các bên cần lưu ý quy định nội dung hợp đồng một cách rõ ràng, chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của mình, hạn chế xảy ra tranh chấp, gây thiệt hại cho các bên trong hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.

Theo Điều 141 Luật thương mại 2005, đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.

Ủy thác mua bán hàng hóa theo Điều 155 Luật thương mại 2005 được hiểu là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.

Như vậy, bên đại diện trong hoạt động đại diện cho thương nhân sẽ nhân dân bên giao đại diện thực hiện các công việc thuộc phạm vi của việc đại diện. Còn ủy thác mua bán hàng hóa là việc bên nhận ủy thác sẽ nhân danh chính mình thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa.

Điều 514 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”.

Theo đó, hàng hóa ủy thác mua bán không phải là đối tượng của hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa. Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa có đối tượng là công việc mua bán hàng hóa mà bên ủy thác muốn bên nhận ủy thác tiến hành.

Theo Điều 160 Luật thương mại 2005 về ủy thác lại cho bên thứ ba: “Bên nhận uỷ thác không được uỷ thác lại cho bên thứ ba thực hiện hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá đã ký, trừ trường hợp có sự chấp thuận bằng văn bản của bên uỷ thác”.

Như vậy, thương nhân nhận ủy thác khi ủy thác lại cho thương nhân khác thực hiện hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa phải có sự chấp thuận bằng văn bản của bên ủy thác.

Trên đây là bài viết của NPLaw về quy định hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa hiện nay. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý giàu kinh nghiệm, NPLaw cung cấp dịch vụ pháp lý uy tín, chuyên nghiệp, đảm bảo tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho Quý Khách hàng. Nếu cần hỗ trợ về vấn đề pháp lý, bạn có thể liên hệ NPLaw để được tư vấn về hỗ trợ.


CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ

Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343

Hotline: 0913 41 99 96

Email: legal@nplaw.vn

Tài liệu tham khảo:

Bài viết liên quan