Trên thực tế những tranh chấp về quyền nuôi con cũng gay gắt không kém những tranh chấp về tài sản khi ly hôn. Hầu hết các bậc làm cha làm mẹ đều muốn được trực tiếp nuôi con. Vậy làm sao để hiểu thế nào là quyền nuôi con và những vấn đề liên quan xoay quanh về quyền nuôi con như thế nào? Hãy cùng NPLaw tìm hiểu về những quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này bên dưới nhé.
Quyền nuôi con là quyền tự nhiên và pháp lý của cha mẹ đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái. Tuy nhiên, tình hình quyền nuôi con hiện nay còn tồn tại một số vấn đề và thách thức.
Thứ nhất, ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con: Trong trường hợp ly hôn, quyền nuôi con thường là một trong những vấn đề gây tranh cãi. Bên cha mẹ thường phải qua một quy trình pháp lý, trong đó sẽ được quyết định quyền nuôi con theo lợi ích của trẻ em.
Thứ hai, con cái trở thành công cụ trong mâu thuẫn gia đình: Một số người sử dụng quyền nuôi con để làm công cụ trong việc tác động, đe dọa hoặc trả thù đối với người còn lại trong mâu thuẫn gia đình. Điều này ảnh hưởng xấu đến tình cảm và sự phát triển của trẻ.
Thứ ba, thiếu sự thống nhất trong quyền nuôi con đối với các gia đình đồng tính: Các đôi đồng tính đôi khi gặp khó khăn trong việc xác định quyền nuôi con và quyền phụ huynh đối với con cái chung. Một số quốc gia đã có sự công nhận pháp lý và giới hạn phạm vi của quyền nuôi con trong trường hợp này.
Thứ tư, tình trạng bạo lực gia đình: Trẻ em trong một môi trường gia đình bạo lực thường chịu nhiều hư hỏng về tâm lý, sức khỏe và học tập. Quyền nuôi con có thể bị vi phạm trong các gia đình đối mặt với bạo lực gia đình.
Thứ năm, về kinh tế và thời gian: Sự khan hiếm tài chính và thời gian là một trong số những nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm quyền nuôi con. Cha mẹ có thể không có đủ tài chính hoặc thời gian để nuôi con cái một cách tốt nhất.
Quyền nuôi con là một thuật ngữ pháp lý liên quan đến quyền giám hộ được sử dụng để mô tả mối quan hệ pháp lý và thực tế giữa cha mẹ hoặc người giám hộ và đứa trẻ cần sự chăm sóc của người đó. Quyền nuôi con bao gồm quyền nuôi con hợp pháp, đó là quyền đưa ra quyết định về đứa trẻ, và quyền nuôi con, là quyền và nghĩa vụ đối với việc cho đứa trẻ một chỗ ở, và chăm sóc đứa trẻ.
Cha mẹ kết hôn thường có quyền nuôi con hợp pháp và thể chất của con cái họ. Các quyết định về quyền nuôi con thường phát sinh trong các thủ tục tố tụng liên quan đến ly hôn, hủy bỏ, ly thân, nhận con nuôi hoặc khi xảy ra cái chết của cha mẹ. Trong hầu hết các khu vực pháp lý quyền nuôi con được xác định theo lợi ích tốt nhất của trẻ.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nêu rõ về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, nguyên tắc giải quyết tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn trước hết căn cứ vào độ tuổi của con. Đối với trường hợp con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện theo quy định. Đối với trường hợp con trên 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con của hai vợ chồng là như nhau. Khi này, nếu hai vợ chồng không thể thỏa thuận được thì Tòa án sẽ tiến hành xem xét và giao con cho bên có điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ nuôi. Cũng cần lưu ý đối với con từ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Theo quy định Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014, cha hoặc mẹ sau khi ly hôn muốn giành quyền nuôi con phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
+ Tự thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con;
+ Trường hợp không thỏa thuận được, phải chứng minh điều kiện của mình có thể đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con:
+ Điều kiện về vật chất như: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… Các bên có thể trình bảng lương, giấy tờ chứng minh thu nhập của mình, các nguồn tài chính khác và cách chăm sóc con sau khi ly hôn…
+ Điều kiện về tinh thần như: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ; giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay; điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn… của cha mẹ.
Lưu ý: Trừ trường hợp con dưới 36 tháng tuổi phải do mẹ trực tiếp nuôi, và con từ đủ 07 tuổi trở lên có nguyện vọng chọn người trực tiếp nuôi dưỡng mình.
Nội dung và hình thức phải đảm bảo các điều kiện chung tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy định như sau:
Như vậy, đơn giành quyền nuôi con cần phải đảm bảo những nội dung như trên.
Căn cứ vào Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình 2014 có quy định mức cấp dưỡng như sau:
“ 1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”
Như vậy, theo quy định trên thì mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con.
Cũng theo điều luật này, mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Hiện nay, chưa có văn bản quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường căn cứ vào chứng từ, hóa đơn,... liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng, chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn như sau:
“1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này."
Đồng thời, theo Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như sau:“Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con."
Như vậy, khi không đăng ký kết hôn thì về con chung thì Tòa án sẽ giải quyết như trường hợp hai vợ chồng có đăng ký kết hôn ly hôn, tức là có thể giành quyền nuôi con như các cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn.
Theo Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP có quy định thì người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Theo Điều 54 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn, giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Bên cạnh đó, khi đã có quyết định của Tòa án yêu cầu cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhưng không thực hiện bản án mặc dù có đủ điều kiện và đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thì có thể bị phạt tối đa 5 năm tù giam theo quy định tại Điều 380 Bộ luật Hình sự 2015.
Ngoài ra, nếu việc trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ khiến người con lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015.
Theo Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên bao gồm:
+ Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
+ Phá tán tài sản của con;
+ Có lối sống đồi trụy;
+ Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Theo đó, người mẹ bị tâm thần không phải một trong những trường hợp bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên. Do đó, đây không phải là cơ sở để người mẹ không có cơ hội giành được quyền nuôi con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, xét về điều kiện chăm sóc, thì người mẹ bị tâm thần vẫn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Điều này có thể trở thành điều kiện bất lợi khi đứng ra giành quyền nuôi con.
Căn cứ tại Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Theo đó, có các trường hợp thay đổi người trực tiếp nuôi con như sau:
- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ.
Như vậy, chồng cũ có vợ mới không thuộc các trường hợp trên. Do đó, nếu vợ cũ muốn giành lại quyền nuôi con, vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau đi tới quyết định cuối cùng thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con.
Việc thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con này của vợ chồng phải xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên, xuất phát từ lợi ích của con.
Trong trường hợp vợ chồng không thể thỏa thuận được với nhau về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, người vợ muốn giành lại quyền nuôi con thì phải chứng minh được chồng không còn đủ điều kiện trực tiếp để nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của con và yêu cầu tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Theo Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn cụ thể tại các Điều 81, 82, 83, và 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
* Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
* Trường hợp, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn thì quyền, nghĩa vụ của mẹ được quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
* Nghĩa vụ của cha là người trực tiếp nuôi con đối với mẹ là người không trực tiếp nuôi con được quy định tại Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Như vậy, căn cứ các quy định trên, sau khi ly hôn, dù không giành được quyền, nghĩa vụ nuôi con vẫn có quyền đưa đón con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình đi chơi.
Trên đây là tất cả các thông tin chi tiết mà NPLaw của chúng tôi cung cấp để hỗ trợ quý khách hàng về vấn đề quyền nuôi con. Trường hợp Quý Khách hàng còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến vấn đề nêu trên hoặc các vấn đề pháp lý khác thì hãy liên hệ ngay cho NPLaw để được đội ngũ chúng tôi trực tiếp tư vấn và hướng dẫn giải quyết.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn