Trong các giao dịch vay mượn hoặc hợp đồng tín dụng, bảo đảm tài sản là một yếu tố quan trọng giúp chủ nợ giảm thiểu rủi ro khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên, không phải lúc nào chủ nợ cũng yêu cầu bảo đảm cho khoản nợ.
Vậy khi chủ nợ không có bảo đảm, pháp luật sẽ xử lý như thế nào để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan? Trong bài viết này, NPLAW sẽ tư vấn giải đáp thắc mắc cho quý khách hàng.
Căn cứ khoản 4 Điều 4 Luật Phá sản 2014, chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Dưới đây là một số đặc điểm của chủ nợ không có bảo đảm:
Chủ nợ không có bảo đảm được giải thích tại khoản 4 Điều 2 Luật Phá sản 2014, bao gồm:
Các chủ thể này có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Theo khoản 5 Điều 2 Luật Phá sản 2014, chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Như vậy, chủ nợ có bảo đảm có khả năng thu hồi khoản nợ bằng cách sử dụng tài sản bảo đảm. Điều này là vì nếu chủ nợ không thể trả nợ, tài sản bảo đảm sẽ được giao cho chủ nợ, giúp giảm thiểu rủi ro cho chủ nợ. Do đó, khoản nợ có bảo đảm thường có lãi suất thấp hơn so với khoản nợ không có bảo đảm.
Trái lại, việc trả nợ cho chủ nợ không có bảo đảm thường phụ thuộc vào quy trình phá sản hoặc kết quả của vụ kiện. Chủ nợ không có bảo đảm phải nộp đơn kiện tại tòa án và cần có phán quyết từ tòa án trước khi có thể thu nợ thông qua việc trích lương và các tài sản sở hữu của chủ nợ.
Theo quy định tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng vay tài sản được định nghĩa là một sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay phải trả lại cho bên cho vay tài sản cùng loại, với số lượng và chất lượng như đã thỏa thuận, và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc nếu có quy định từ pháp luật. Do đó, từ quy định này, có thể hiểu rằng việc vay tài sản là một sự thỏa thuận giữa các bên, và không có quy định bắt buộc phải có tài sản bảo đảm kèm theo.
Khả năng được vay tiền mà không cần tài sản đảm bảo phụ thuộc vào một số yếu tố chính:
- Điều kiện tín dụng: Một yếu tố quan trọng là điều kiện tín dụng của người vay. Người vay có điểm tín dụng cao hơn, tức là có lịch sử thanh toán nợ tốt và ít nợ xấu, sẽ có khả năng được vay tiền mà không cần tài sản đảm bảo cao hơn.
- Thu nhập và khả năng trả nợ: Người vay cần có thu nhập ổn định và đủ lớn để trả tiền lãi và gốc mà không cần đến tài sản đảm bảo. Người cho vay thường sẽ xem xét tỷ lệ nợ trên thu nhập của người vay để đảm bảo họ có khả năng trả nợ.
- Lịch sử làm việc và ổn định công việc: Lịch sử làm việc ổn định và có công việc ổn định cũng là một yếu tố quan trọng. Người vay có thể được xem xét tích cực hơn nếu họ có lịch sử làm việc ổn định và không gặp các tình trạng thất nghiệp thường xuyên.
- Chính sách và tiêu chí của ngân hàng hoặc tổ chức cho vay: Mỗi ngân hàng hoặc tổ chức cho vay có chính sách và tiêu chí riêng khi xem xét việc cấp vay không cần tài sản đảm bảo. Một số tổ chức có thể coi trọng điểm tín dụng hơn, trong khi những tổ chức khác có thể tập trung vào thu nhập và lịch sử làm việc.
Căn cứ khoản 1 Điều 5 Luật Phá sản 2014, theo đó, chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định như sau:
"1. Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán."
Như vậy, theo quy định trên thì chủ nợ không có bảo đảm có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Căn cứ theo Điều 54 Luật Phá sản 2014 quy định về thứ tự phân chia tài sản như sau:
Như vậy, có thể thấy chủ nợ không có bảo đảm của doanh nghiệp nằm trong nhóm thứ tự phân chia tài sản theo quy định. Do đó, chủ nợ không có bảo đảm không được ưu tiên thanh toán nợ khi doanh nghiệp phá sản mà phải phân chia theo thứ tự luật định.
Căn cứ khoản 4 Điều 4 Luật Phá sản 2014, chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Như vậy, chủ nợ không có bảo đảm bao gồm cả tổ chức.
Căn cứ khoản 1 Điều 5 Luật Phá sản 2014, theo đó, chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định như sau:
"1. Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán."
Như vậy, chủ nợ không có bảo đảm có có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Hiện nay, pháp luật không quy định Chủ nợ không có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong vòng bao lâu mà chỉ quy định thời điểm chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Trên đây là tất cả các thông tin chi tiết mà NPLaw của chúng tôi cung cấp để hỗ trợ quý khách hàng về đến chủ nợ không có bảo đảm. Trường hợp Quý Khách hàng còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến vấn đề nêu trên hoặc các vấn đề pháp lý khác thì hãy liên hệ ngay cho NPLaw để được đội ngũ chúng tôi trực tiếp tư vấn và hướng dẫn giải quyết.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn