Chứng cứ là yếu tố quan trọng, giữ vai trò mấu chốt trong quá trình giải quyết một vụ án; giúp Tòa án xác định, làm rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ án, đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn. Vậy chứng cứ là gì? Sau đây, NPLAW sẽ phân tích, làm sáng tỏ quy định pháp luật hiện hành về chứng cứ.
Theo quy định tại Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015), chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Định nghĩa chứng cứ được quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015), cụ thể: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.”
Điều 80 Luật Tố tụng hành chính 2015 (LTTHC 2015) quy định “Chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
Theo Điều 94 BLTTDS 2015, chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Vật chứng.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Tại Khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2015, chứng cứ được xác định từ các nguồn sau:
Theo Điều 81 LTTHC 2015, chứng cứ trong vụ án hành chính được thu thập từ các nguồn sau đây:
Từ 3 quy định về định nghĩa của chứng cứ có thể thấy, điều kiện để được xem là chứng cứ trong vụ án (bao gồm cả vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính) gồm:
BLTTHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2021 không sử dụng thuật ngữ “chứng cứ điện tử” mà chỉ có những quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Khái niệm dữ liệu điện tử quy định tại Điều 99 BLTTHS 2015, đó là: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác”.
Nếu như BLTTHS 2015 không sử dụng thuật ngữ “chứng cứ điện tử”, thì BLTTDS 2015 và LTTHC 2015 lại sử dụng thuật ngữ “chứng cứ điện tử” duy nhất một lần tại khoản 3 Điều 95 BLTTDS 2015 và khoản 3 Điều 82 LTTHC 2015 với ý nghĩa là một trong bảy hình thức thể hiện của “thông điệp dữ liệu điện tử” nhưng không có quy định nào đưa ra khái niệm “chứng cứ điện tử ”. Đồng thời, BLTTDS 2015 và LTTHC 2015 đều quy định dữ liệu điện tử là một trong các nguồn chứng cứ có thể khai thác các chứng cứ sử dụng trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính.
Căn cứ theo Điều 10 Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định về thông điệp dữ liệu cụ thể như sau: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác." Và Điều 11 Luật Giao dịch điện tử 2005 quy định rõ về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu như sau: “Thông tin trong thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu."
Đồng thời, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định rằng thông điệp dữ liệu (hay còn gọi là dữ liệu điện tử) là một trong số các nguồn của chứng cứ. Như vậy, tin nhắn cũng được xem là chứng cứ.
Tuy nhiên, tin nhắn chụp màn hình cũng chưa chắc là một chứng cứ nếu không thỏa mãn điều kiện để được xem là chứng cứ như đã phân tích ở phần trên.
Theo quy định tại Điều 93 BLTTDS 2015, Điều 80 LTTHC 2015, vật chứng, tài liệu do đương sự trong vụ án cung cấp sẽ được xem là chứng cứ nếu thỏa mãn các điều kiện về chứng cứ.
Tại Điều 97 BLTTDS 2015, Điều 88 BLTTHS 2015, Điều 84 LTTHC 2015
Căn cứ theo quy định tại Điều 13 Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH15 quy định về mức phạt khi cản trở thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự cụ thể như sau:
- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Người tham gia tố tụng khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật, trừ người bị buộc tội;
+ Người tham gia tố tụng từ chối khai báo hoặc từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp tài liệu, đồ vật, trừ người bị buộc tội.
- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với người tham gia tố tụng làm giả hoặc hủy hoại chứng cứ gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, vụ việc.
- Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người bị hại tham gia tố tụng hoặc buộc người bị hại khai báo gian dối, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 13 Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH15;
+ Người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 13 Pháp lệnh 02/2022/UBTVQH15;
+ Người giám định, người định giá tài sản từ chối kết luận giám định, định giá tài sản mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
- Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch, người dịch thuật thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch, người dịch thuật dịch gian dối;
+ Người tham gia tố tụng lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định, người định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định, người định giá tài sản kết luận sai với sự thật khách quan;
+ Người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối.
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với luật sư lừa dối, đe dọa, mua chuộc hoặc sử dụng vũ lực buộc người bị hại khai báo gian dối hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối.
Trên đây là thông tin giải đáp vướng mắc về chứng cứ mà công ty NPLAW gửi đến Quý độc giả. Nếu Quý độc giả có bất kỳ vướng mắc nào liên quan cần giải đáp thêm, xin vui lòng liên hệ với NPLAW theo thông tin liên hệ sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Hotline: 0913449968
Email: legal@nplaw.vn
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn