Quyền thăm con sau ly hôn là một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của người cha, người mẹ sau khi hôn nhân đã kết thúc. Theo luật pháp Việt Nam, cả hai bên vợ chồng sau ly hôn đều có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con cái của mình. Mục tiêu chính của việc này là đảm bảo rằng lợi ích tốt nhất của trẻ em được ưu tiên hàng đầu, và rằng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái không bị gián đoạn sau ly hôn.
Sau khi ly hôn, việc duy trì mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em về mặt cảm xúc và tinh thần. Quyền thăm con không chỉ giúp củng cố mối liên kết giữa cha mẹ và con cái, mà còn góp phần vào việc tạo dựng một môi trường gia đình ổn định sau ly hôn.
Trong hầu hết các quốc gia, luật pháp đều quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc thăm nom con cái sau khi ly hôn. Mục tiêu chính là bảo vệ lợi ích tốt nhất của trẻ em, đồng thời cân nhắc đến khả năng và hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình. Việc áp dụng các quy định này cần phải linh hoạt để phản ánh sự thay đổi trong cuộc sống của các bên liên quan.
Quyền thăm con sau ly hôn không chỉ bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp, mà còn có thể bao gồm việc liên lạc qua điện thoại, internet, và các phương tiện truyền thông khác. Điều này giúp cho cha mẹ có thể duy trì mối quan hệ với con cái dù cho có khoảng cách địa lý.
Quyền thăm con sau ly hôn là quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.” Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 83 Luật này quy định: “Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
Như vậy, người trực tiếp nuôi con không được hạn chế quyền thăm con sau ly hôn.
Theo khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.” Bên cạnh đó, theo khoản 1 Điều 85 Luật này quy định: “Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
Theo đó, người không trực tiếp nuôi có quyền thăm con sau ly hôn mà không bị ai cản trở trừ trường hợp bị hạn chế quyền theo quy định trên.
Căn cứ vào Điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Do đó, nếu bị người khác ngăn cản quyền thăm con sau ly hôn thì người không trực tiếp nuôi có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Pháp luật hiện hành không có quy định về giới hạn số lần được thăm con.
Theo khoản 2 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, “Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.” Theo khoản 5 Điều 86 Luật này quy định “Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Như vậy, con không có quyền yêu cầu không gặp bố/mẹ sau ly hôn.
Theo Điều 56 Nghị định 144/2021/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.”
Như vậy, ngăn cản quyền thăm con sẽ bị xử phạt 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Trên đây là thông tin giải đáp vướng mắc về quyền thăm con sau ly hôn mà NPLaw gửi đến Quý độc giả. Nếu Quý độc giả có bất kỳ vướng mắc nào liên quan cần giải đáp thêm, xin vui lòng liên hệ với NPLaw theo thông tin liên hệ sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn