Không thanh toán trả nợ là một hành vi vi phạm nghĩa vụ trong quan hệ vay – cho vay dân sự. Để hiểu hơn về việc trả nợ, các trách nhiệm pháp lý liên quan, NPLaw xin gửi đến Quý độc giả bài viết cung cấp thông tin pháp lý về không thanh toán trả nợ.
Tình trạng "đứng cho vay, quỳ đòi nợ" hiện nay diễn ra phổ biến trong quan hệ vay mượn tài sản. Thực tế, việc không thanh toán trả nợ là hành vi vi phạm nghĩa vụ đang dần trở nên phổ biến, thậm chí có thể xem là một vấn nạn trong quan hệ cho vay.
Vì nhiều lý do khác nhau, như không còn khả năng tài chính, khó khăn tài chính hoặc cố ý không trả nợ mà người đi vay không thanh toán trả nợ, dẫn đến việc người cho vay khốn đốn khi lấy lại tiền, tài sản của chính mình. Chính vì thế kéo theo nhiều hành vi đòi nợ, bao gồm cả những hành vi hợp pháp và những hành vi tiêu cực bất hợp pháp.
Có thể nói, việc phổ biến hành vi không thanh toán trả nợ là thực trạng đáng buồn trong nền kinh tế hiện nay.
Không thanh toán trả nợ là việc không thực hiện thanh toán nghĩa vụ trả nợ đúng hạn, bị trễ hạn hoặc ngừng thanh toán. Điều này có thể xảy ra đối với cá nhân, doanh nghiệp và thậm chí các quốc gia khi họ không thể tiếp tục đảm nhiệm trách nhiệm trả nợ. Đây có thể coi là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các nghĩa vụ được thỏa thuận trong giao dịch dân sự cho vay giữa các bên.
- Trường hợp người có khả năng thanh toán
Căn cứ vào khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về mức phạt đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của người khác đối với các mức phạt như sau:
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, trường hợp người vay không thanh toán trả nợ có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự, có thể bị phạt tù lên đến 20 năm.
Theo đó, hành vi bỏ trốn không trả nợ mặc dù có khả năng trả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu thỏa mãn các cấu thành của tội danh này theo quy định nêu trên.
- Trường hợp người không có khả năng thanh toán
Nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Điều 466, Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý”.
Hiện nay, pháp luật không quy định về việc truy cứu trách nhiệm đối với trường hợp người vay không có khả năng trả nợ, tuy nhiên chủ nợ có thể khởi kiện nhờ Tòa án kiểm tra khả năng thi hành án và xử lý nghĩa vụ trả nợ.
Pháp luật không ủng hộ việc đòi nợ hay sử dụng bạo lực hoặc các hình thức tấn công để đòi lại tiền vay. Do đó, để đòi lại tiền vay, xử lý người không thanh toán trả nợ đúng pháp luật, có thể tham khảo một số phương án như sau:
Thứ nhất, gửi thư, liên hệ yêu cầu người vay trả nợ. Đây là phương án thiện chí, tuy nhiên bị phụ thuộc nhiều vào sự thiện chí trả nợ của người vay.
Thứ hai, khởi kiện lên Toà án nhân dân có thẩm quyền theo con đường giải quyết tranh chấp dân sự. Tuy nhiên phương án này có thể gặp rủi ro trong việc thi hành án khi người vay không tự nguyện thi hành án và có ý trốn tránh nghĩa vụ.
Thứ ba, người cho vay có thể tố giác lên cơ quan công an về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để điều tra, xử lý hành vi vay tiền nhưng trốn tránh không trả nợ của người vay.
Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Theo đó đối với trường hợp khởi kiện đòi nợ, thời hiệu khởi kiện là 03 năm kể từ khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ và các bên không có thỏa thuận gia hạn thời hạn cho vay. Kể từ thời điểm bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, bên cho vay được cho là có quyền, lợi ích bị xâm phạm và được khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp mượn nợ từ năm 2015 nhưng ngưng không thanh toán đến nay là 01 năm. Theo đó, người cho mượn nợ có cơ sở cho rằng bản thân đã bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, thời gian từ khi người cho mượn nợ biết quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm đến nay là 01 năm (từ thời điểm dừng thanh toán) do đó vẫn còn thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp luật.
Như vậy, người cho vay có quyền khởi kiện lên Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu trả nợ.
Căn cứ theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 35 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Theo đó, khi người không thanh toán trả nợ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật.
Theo quy định của pháp luật thì chỉ cấm hoạt động ngành nghề kinh doanh đòi nợ, nghĩa là cấm các cá nhân, tổ chức hoạt động dịch vụ kinh doanh đòi nợ. Hiện nay, pháp luật chưa quy định chi tiết về cấm hoạt động uỷ quyền để đòi nợ. Do vậy, việc uỷ quyền đòi nợ vẫn có căn cứ để thực hiện. Việc uỷ quyền đòi nợ sẽ căn cứ theo quy định của pháp luật dân sự.
Cụ thể, tại Điều 138 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo Điều 562 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền.
Như vậy, việc ủy quyền cho người khác đòi nợ người không thanh toán trả nợ vẫn phù hợp với quy định pháp luật.
Hiểu được nhu cầu tìm hiểu pháp lý về việc không thanh toán trả nợ của Quý Khách hàng, Công ty Luật TNHH Ngọc Phú với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn thương mại, tư vấn giải quyết các vấn đề dân sự sẽ hỗ trợ, tư vấn cho Quý Khách hàng về việc không thanh toán trả nợ. Quý độc giả có thể liên hệ ngay tới NPLaw để được các luật sư dày dặn kinh nghiệm của NPLaw tư vấn tận tình và nhanh chóng với thông tin liên hệ dưới đây:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn