Từ khi sinh ra, mỗi bản thân mỗi người đều có quyền nhân thân và được nhà nước bảo vệ như Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Sức khỏe là vốn quý của mỗi người, mà không một ai có quyền tự ý xâm phạm tới sức khỏe của mình. Do đó trong các trường hợp, có người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật dân sự, xâm phạm đến sức khỏe của người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe để bù đắp thiệt hại đó, phục hồi sức khỏe của mình. Để giúp bạn đọc, có thêm thông tin hữu ít cho vấn đề trên, hãy cùng NP LAW tìm hiểu nhé.
Bồi thường thiệt hại về sức khỏe là dạng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người khác xâm phạm đến sức khỏe của mình.
Bồi thường thiệt hại về sức khỏe là trách nhiệm của chủ thể gây thiệt hại cho người khác, họ phải bù đắp bằng khoản tiền hoặc vật chất cho người bị thiệt hại để người bị xâm phạm đến sức khỏe phục hồi và khắc phục hậu quả do thiệt hại đó gây ra.
Khi có đủ căn cứ theo quy định pháp luật thì sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe đối với người có hành vi trái pháp luật gây ra đối với chủ thể khác.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 thì người nào có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác thì phải bồi thường. Mức bồi thường thiệt hại thì phải căn cứ vào tình trạng sức khỏe và những vấn đề khác liên quan đến người bị thiệt hại.
Khi sức khỏe của một người bị xâm phạm, thiệt hại được xác định gồm thiệt hại về vật chất và những tổn thất về tinh thần.
Khi tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm thì thiệt hại tinh thần sẽ được xác định và người bị thiệt hại được một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015, mục 1 phần II Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì các khoản chi phí phải bồi thường khi thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
Tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).
Nếu trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:
Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.
Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:
Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.
Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm.
Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.
Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…
Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 38/2019/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang thì mức lương cơ sở thời điểm hiện tại là “Từ ngày 01 tháng 7 năm 2019, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng”.
Theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật Dân sự thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe như sau:
" 1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
Phải có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 593 Bộ luật Dân sự thì “Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường từ thời điểm mất hoàn toàn khả năng lao động cho đến khi chết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Như vậy, trong trường hợp khi sức khỏe bị xâm phạm, dẫn đến mất khả năng lao động thì người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại bắt đầu từ khi có kết quả hoặc quyết định người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động, và kết thúc khi người bị thiệt hại chết đi. Người gây thiệt hại phải thực hiện đầy đủ, đúng nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong thời hạn này.
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khoẻ của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu, không quá 50 lần mức lương cơ sở.
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khoẻ của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
Như vậy, người bồi thường phải bồi thường tất cả chi phí tại khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự, về mức bồi thường về mặt tinh thần thì tối đa là 74.500.000 đồng (không được quá 50 lần mức lương cơ sở, mức lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng).
Qua bài phân tích ở trên, thì khi một người bị xâm phạm đến sức khỏe nếu không phải lỗi của mình thì đương nhiên sẽ được bồi thường thiệt hại về sức khỏe về vật chất và tinh thần theo đúng quy định pháp luật do người gây ra thiệt hại chịu trách nhiệm bồi thường.
Trên đây là bài viết của chúng tôi về hướng dẫn bồi thường khi khi sức khỏe bị xâm phạm. Nếu Quý bạn đọc có thắc mắc về trách nhiệm bồi thường về sức khỏe hay những vấn đề phát sinh trong việc đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe thì vui lòng liên hệ với NP LAW ngay nhé. NP LAW tư vấn về vấn đề bồi thường thiệt hại về sức khỏe như:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn