Xuất phát từ việc bảo vệ con người và tính nguy hiểm cho xã hội của tội giết người, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định rất sớm về loại tội này với những hình phạt rất nghiêm khắc. Bài viết dưới đây NPLaw sẽ cung cấp cho bạn một số vấn đề pháp lý liên quan đến tội phạm này.
Tội giết người là loại tội phạm có tính nguy hiểm cao, được quy định từ rất sớm trong luật hình sự Việt Nam. Nhưng tội giết người đều được quy định rất ngắn gọn theo kiểu “gọi tên tội phạm”, “ nhắc lại tội danh” mà không đưa ra khái niệm, không mô tả các dấu hiệu pháp lý của tội giết người
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau đưa ra định nghĩa về tội giết người. Giữa các khái niệm tuy có sự diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung các quan điểm đều thống nhất với nhau về một số nội dung, cụ thể
Đây có thể được xem là những dấu hiệu cơ bản để phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua 4 dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạtTrên cơ sở phân tích đó, đồng thời dựa trên quy định về khái niệm tội phạm tại Điều 8 BLHS 2015 có thể hiểu: “Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện”.
Bộ Luật hình sự năm 2015 quy định 02 khung hình phạt đối với tội giết người: Khung cơ bản được quy định tại Khoản 2 Điều 123 BLHS 2015 với hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với các trường hợp phạm tội giết người thông thường; Khung hình phạt tăng nặng với mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS 2015
Người phạm tội giết người, ngoài áp dụng những hình phạt chính thì họ còn có thể bị áp dụng thêm một hoặc một số hình phạt bổ sung
Bên cạnh đó, tại Khoản 3 Điều 123 BLHS 2015 còn quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người với mức hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù.
Đây là trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 123 BLHS 2015, là cấu thành tội phạm cơ bản của tội giết người. Theo đó, người nào giết người không thuộc một trong các trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng quy định tại Khoản 1 Điều 123 BLHS thì bị phạt tù từ 07 đến 15 năm
Như vậy, có thể thấy quy định đối với hành vi giết người trong trường hợp bình thường chỉ là hình phạt tù có thời hạn.
Tại khoản 1 Điều 123 BLHS 2015 quy định “ Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Cụ thể là:
Giết người thuê là hành vi của người mà trước đó không có ý thức muốn giết người khác nhưng vì được người khác thuê nên đã thực hiện hành vi giết người theo yêu cầu của người thuê để nhận được những lợi ích nhất định.Thuê giết người và giết người thuê có mối quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê).
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó. Ở giai đoạn phạm tội này, thời điểm sớm nhất là thời điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần để thực hiện hành vi phạm tội có thể xảy ra thuận lợi, dễ dàng hơn. Thời điểm muộn nhất là thời điểm trước lúc người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm. Đó là thời điểm giới hạn giữa chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
Như vậy, tại khoản 3 Điều 123 BLHS 2015 quy định người phạm tội giết người sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội giết người thì phải chịu trách nhiệm hình sự
Về mức hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người. BLHS 2015 chỉ quy định mức phạt tối đa là không quá 05 năm tù.
Hình phạt bổ sung là hình phạt được áp dụng kèm theo hình phạt hình bổ sung cho hình phạt chính. Hình phạt bổ sung chỉ có thể được áp dụng khi người phạm tội đã bị áp dụng hình phạt chính
Theo quy định tại khoản 2 Điều 32 BLHS 2015, hình phạt bổ sung bao gồm:
Tại Điều 13 BLHS 2015 có quy định về phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác như sau: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Như vậy, trong trường hợp uống rượu xong giết người vẫn phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật hình sự khi phạm tội giết người trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu.
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
Khoản 3 Điều 19 Bộ Luật Hình sự năm 2015 (Sửa sửa đổi bởi Khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định:“Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.”.
Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về phân loại tội phạm, theo đó: “Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.” Trong khi đó, tội giết người quy định tại Khoản 1 Điều 123 Bộ Luật Hình sự 2015 có khung hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình nên là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, trong trường hợp người bào chữa biết rõ người được bào chữa phạm tội giết người trong khung hình phạt thuộc khoản 1 Điều 123 Bộ Luật hình sự năm 2015 mà không tố giác tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong số các quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào có thể so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng đó mà trong các Bộ luật Hình sự từ năm 1985 đến nay gần nhất là Bộ luật Hình sự 2015, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đều đã quy định tội giết người. Hơn cả, tội phạm giết người diễn ra ngày càng phổ biến, với những hành vi man rợ, tinh vi. Để biết thêm chi tiết về loại tội phạm này hãy liên hệ ngay với NPLaw chúng tôi để nhanh chóng được giải đáp thắc mắc.
Công ty Luật TNHH Ngọc Phú – Hãng luật NPLaw
Trụ sở chính: 139H4 Lý Chính Thắng, phường Võ Thị Sáu, quận 3, TP. Hồ Chí Minh
Chi nhánh Hà Nội: Tầng 10, Tòa nhà Ford Thăng Long, 105 Láng Hạ, Quận Đống Đa, Hà Nội.
Chi nhánh Nha Trang: Số 3M, tầng trệt chung cư CT2, khu đô thị VCN Phước Hải, đường Tố Hữu, phường Phước Hải, TP.Nha Trang, Khánh Hòa.
Hotline: 0913449968
Email: legal@nplaw.vn