Bên cạnh việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì việc xác định các khoản nợ chung, nợ riêng trong thời kỳ hôn nhân cũng đang được các cặp vợ chồng đặc biệt quan tâm. Qua bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ cung cấp cho các cặp vợ chồng thông tin về những vấn đề xoay quanh nợ chung trong hôn nhân và nguyên tắc giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Hiện nay, tình trạng ly hôn diễn ra ngày càng nhiều,và cách giải quyết nợ chung trong hôn nhân nhiều cặp đôi vẫn còn lúng túng và không biết cách giải quyết. Nhiều gia đình do không hiểu biết pháp luật, mà tự gán ghép nợ riêng cho bản thân mình khiến cho kinh tế sinh hoạt bị ảnh hưởng trầm trọng.
Vậy nợ chung là gì? Và nợ chung trong hôn nhân là gì? Hãy cùng tìm hiểu sau đây:
Nợ chung là những khoản nợ phát sinh từ giao dịch hằng ngày do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập hay nghĩa vụ bồi thường thiệt hại vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm. Là nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân được hiểu là những khoản nợ phát sinh từ giao dịch của vợ chồng hoặc những khoản nợ đứng tên một trong hai bên vợ hoặc chồng sử dụng vì mục đích chung cho gia đình, con cái.
Quy định của pháp luật đến nợ chung trong hôn nhân như sau:
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thì vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có các nghĩa vụ chung về tài sản, Cùng với đó, tại Khoản 20, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định rõ “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.”
Do đó, nợ chung của vợ chồng phát sinh không nhất thiết phải cần hai bên cùng thỏa thuận xác lập mà có thể do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; từ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường …
Vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ như nhau với các khoản nợ chung, vì vậy về trách nhiệm trả nợ khi ly hôn là ngang bằng nhau. Trường hợp việc ly hôn có căn cứ để xác định việc trốn tránh nghĩa vụ dân sự của vợ, chồng thì người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ chung cho phần nghĩa vụ chưa được thực hiện với bên thứ ba theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.”
Sau khi ly hôn, các khoản nợ chung của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Hai bên phải cùng tiếp tục chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên thứ ba. Hai bên có thể thỏa thuận cùng với chủ nợ để giải quyết khoản nợ đó. Nếu không thỏa thuận được thì khi Tòa án nhận định đó là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đó sẽ chia đôi, mỗi bên phải trả một phần.
Nghĩa vụ thanh toán nợ chung trong hôn nhân như sau:
- Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
- Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
Căn cứ Điều 283 Bộ luật Dân sự 2015 về thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ 3: "Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể uỷ quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ."
Theo đó, nếu đi tù không trả nợ được thì người này có thể ủy quyền cho bên thứ ba (người thân, bạn bè…) thay mình trả nợ.
Người đi vay vẫn phải chịu trách nhiệm trước bên cho vay trong trường hợp người thứ ba không trả hoặc không trả đủ nợ.
Sau khi ly hôn, các khoản nợ chung của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Hai bên phải cùng tiếp tục chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên thứ ba. Hai bên có thể thỏa thuận cùng với chủ nợ để giải quyết khoản nợ đó. Nếu không thỏa thuận được thì khi Tòa án nhận định đó là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đó sẽ chia đôi, mỗi bên phải trả một phần.
Không có quy định nào thể hiện tất cả các khoản nợ hình thành trong quá trình hôn nhân đều là nợ chung. Chỉ có một số khoản nợ thuộc trách nhiệm liên đới quy định (nợ phát sinh để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nợ phát sinh từ trường hợp kinh doanh chung, hoặc khoản nợ là nghĩa vụ chung theo Điều 37, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm…) thì mới được xem là nợ chung.
Việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ được xem là hành vi ly hôn giả tạo. Hành vi ly hôn giả tạo này sẽ bị xử phạt hành chính theo điểm đ khoản 2 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, cụ thể: Phạt tiền 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân có hành vi lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
Sau khi ly hôn, các khoản nợ chung của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Hai bên phải cùng tiếp tục chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên thứ ba. Hai bên có thể thỏa thuận cùng với chủ nợ để giải quyết khoản nợ đó.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn