Tranh chấp về lối đi chung xảy ra ngày càng nhiều. Vậy có được khởi kiện liên quan tranh chấp lối đi không? Có cần phải triệu tập tất cả người cùng sử dụng lối đi đó để tham gia tranh chấp lối đi không? Hãy cùng NPLaw tìm hiểu về tranh chấp lối đi trong bài viết dưới đây.
Hiện nay, việc tranh chấp lối đi chung xảy ra ngày càng nhiều. Không chỉ xuất phát từ việc mở lối đi chung mà còn do lấn chiếm giữa các chủ sử dụng đất liền kề với nhau mà không hề có sự thỏa thuận. Tranh chấp lối đi chung rất phổ biến trong đời sống nhưng lại ít người biết được hướng giải quyết của chúng. Pháp luật hiện nay không quy định hay giải thích thế nào là lối đi chung. Tuy nhiên trên thực tế, lối đi chung có thể hiểu là phần diện tích đất được sử dụng làm lối đi chung của nhiều hộ gia đình hoặc nhiều chủ sử dụng các thửa đất khác nhau, để đi ra đường giao thông công cộng.
Pháp luật hiện hành không có quy định về khái niệm thế nào là lối đi chung.
Tranh chấp lối đi chung được hiểu là tranh chấp giữa các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức với nhau về việc chủ thể nào có quyền sử dụng đất đối với lối đi chung đó.
Theo Điều 203 Luật Đất đai 2013 thì trường hợp tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nhưng không thành thì đương sự có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân để giải quyết.
Theo đó, cá nhân có quyền khởi kiện liên quan đến tranh chấp lối đi trong trường hợp tranh chấp lối đi đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân xã mà không thành.
Theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP quy định hướng dẫn về chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật như sau:
“2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.”
Theo đó, khi thực hiện tranh chấp lối đi việc cần phải hòa giải là điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện.
Theo Điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định như sau:
Theo đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự mà không bắt buộc phải triệu tập tất cả người cùng sử dụng lối đi đó để tham gia tranh chấp lối đi.
Theo khoản 5 Điều 34 Nghị định 166/2013/NĐ-CP quy định như sau:
"5. Trường hợp cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế về việc tháo dỡ, di chuyển công trình xây dựng trái phép hoặc bàn giao đất mà trong công trình và trên đất đó có tài sản không thuộc diện phải cưỡng chế thì người tổ chức cưỡng chế có quyền buộc cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế và những người khác có mặt trong công trình ra khỏi công trình hoặc khu vực đất, đồng thời yêu cầu họ tự chuyển tài sản ra theo. Nếu họ không tự nguyện thực hiện thì người tổ chức cưỡng chế yêu cầu lực lượng cưỡng chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi công trình hoặc khu vực đất đó.
Nếu họ từ chối nhận tài sản, người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ số lượng, chủng loại, tình trạng từng loại tài sản và thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để trông giữ, bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan ra quyết định cưỡng chế và thông báo địa điểm, thời gian để cá nhân, tổ chức có tài sản nhận lại tài sản. Cá nhân, tổ chức có tài sản phải chịu các chi phí vận chuyển, trông giữ, bảo quản tài sản.
Quá thời hạn 06 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo đến nhận tài sản mà cá nhân, tổ chức có tài sản không đến nhận thì tài sản đó được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí cho việc vận chuyển, trông giữ, bảo quản, xử lý tài sản sẽ được gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn tại tổ chức tín dụng và thông báo cho cá nhân, tổ chức có tài sản biết để nhận khoản tiền đó. Đối với tài sản hư hỏng và không còn giá trị, người tổ chức cưỡng chế tổ chức tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ hiện trạng của tài sản trước khi tiêu hủy."
Theo đó, nếu sau khi có kết quả của Tòa về việc tranh chấp lối đi nhưng một bên không được Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện vẫn cản trở thì có thể bị cưỡng chế thi hành theo quy định pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 34 Nghị định 166/2013/NĐ-CP quy định như sau:
"5. Trường hợp cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế về việc tháo dỡ, di chuyển công trình xây dựng trái phép hoặc bàn giao đất mà trong công trình và trên đất đó có tài sản không thuộc diện phải cưỡng chế thì người tổ chức cưỡng chế có quyền buộc cá nhân, tổ chức phải thi hành quyết định cưỡng chế và những người khác có mặt trong công trình ra khỏi công trình hoặc khu vực đất, đồng thời yêu cầu họ tự chuyển tài sản ra theo. Nếu họ không tự nguyện thực hiện thì người tổ chức cưỡng chế yêu cầu lực lượng cưỡng chế đưa họ cùng tài sản ra khỏi công trình hoặc khu vực đất đó.
Nếu họ từ chối nhận tài sản, người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ số lượng, chủng loại, tình trạng từng loại tài sản và thuê tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để trông giữ, bảo quản hoặc bảo quản tại kho của cơ quan ra quyết định cưỡng chế và thông báo địa điểm, thời gian để cá nhân, tổ chức có tài sản nhận lại tài sản. Cá nhân, tổ chức có tài sản phải chịu các chi phí vận chuyển, trông giữ, bảo quản tài sản.
Quá thời hạn 06 tháng, kể từ ngày nhận được thông báo đến nhận tài sản mà cá nhân, tổ chức có tài sản không đến nhận thì tài sản đó được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Số tiền thu được, sau khi trừ các chi phí cho việc vận chuyển, trông giữ, bảo quản, xử lý tài sản sẽ được gửi tiết kiệm loại không kỳ hạn tại tổ chức tín dụng và thông báo cho cá nhân, tổ chức có tài sản biết để nhận khoản tiền đó. Đối với tài sản hư hỏng và không còn giá trị, người tổ chức cưỡng chế tổ chức tiêu hủy theo quy định của pháp luật. Người tổ chức cưỡng chế phải lập biên bản ghi rõ hiện trạng của tài sản trước khi tiêu hủy."
Theo đó, nếu không tự nguyện tháo dỡ hàng rào xây dựng lấn chiếm lối đi chung thì sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định pháp luật.
Theo khoản 1 và khoản 4 Điều 16 Nghị định 91/2019/NĐ-CP thì hành vi xây tường rào bê tông B40 bao quanh lối đi chung gây ảnh hưởng đến đi lại của những hộ gia đình khác bị xử phạt như sau:
Theo đó, cá nhân xây tường rào bê tông B40 bao quanh lối đi chung gây ảnh hưởng đến đi lại của những hộ gia đình khác thì bị xử phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Căn cứ khoản 4 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì trong trường hợp một hộ dân xây tường rào làm mất lối đi chung của 6 hộ dân khác, có 1 bên không chịu thì sẽ giải quyết như sau:
Theo đó, trong trường hợp một hộ dân xây tường rào làm mất lối đi chung của 6 hộ dân khác, đã tiến hành hòa giải nhưng 1 bên vẫn không đồng ý với kết quả hòa giải thì UBND xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo.
Một trong những Công ty Luật cung cấp dịch vụ pháp luật về tranh chấp lối đi uy tín là Công ty Luật TNHH Ngọc Phú. Khi sử dụng dịch vụ của chúng tôi, Quý khách sẽ được hỗ trợ tận tình bởi các chuyên viên và luật sư có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm dày dặn. Quý khách sẽ được nghe ý kiến tư vấn về quy trình giải quyết các vấn đề về tranh chấp lối đi. Trường hợp bạn có nhu cầu cần được hỗ trợ về tranh chấp lối đi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có thể liên hệ ngay với NPLaw để được kịp thời hỗ trợ thông qua thông tin liên hệ sau:
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn