Thực trạng về hành vi đánh con nợ như thế nào? Quy định pháp luật về đánh con nợ? Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu vấn đề này.
Tình trạng đánh con nợ ở Việt Nam đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Theo thống kê của Bộ Công an, trong năm 2022, cả nước đã xảy ra hơn 1.000 vụ đánh con nợ, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng về người và tài sản.
Các vụ đánh con nợ thường xảy ra ở các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi người dân còn có tư tưởng trọng nợ, nặng lãi. Thủ đoạn của các đối tượng thường là đe dọa, khủng bố tinh thần, thậm chí là đánh đập, gây thương tích cho con nợ hoặc người thân của họ.
Hành vi hăm dọa sẽ đánh con nợ có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi.
- Đối với xử lý hình sự
Nếu hành vi hăm dọa sẽ đánh con nợ có tính chất đe dọa, uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015.
- Đối với xử lý hành chính
Nếu hành vi hăm dọa sẽ đánh con nợ không có tính chất đe dọa, uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP
- Đánh bị thương
Người có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm về các tội sau đây theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017):
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu cố ý gây thương tích và tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%, trong các trường hợp như sử dụng vũ khí nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm, đối với người yếu đuối, người dưới 16 tuổi, và nhiều trường hợp khác.
Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 06 năm trong các trường hợp như gây tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, gây thương tích cho nhiều người, tái phạm nguy hiểm, và các trường hợp khác.
Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm nếu tỷ lệ tổn thương cơ thể là 61% trở lên, hoặc gây thương tích cho nhiều người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, và các trường hợp khác.
Khung 4: Phạt tù từ 07 năm đến 14 năm trong các trường hợp như gây chết người, gây tổn thương cơ thể 61% trở lên, và các trường hợp khác.
Khung 5: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân trong các trường hợp như làm chết 02 người trở lên và gây tổn thương cơ thể 61% trở lên cho nhiều người.
Những quy định này nhằm xác định mức độ trách nhiệm pháp lý tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi gây thương tích.
- Đánh chết
Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội giết người bị xử lý như sau:
- Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
+ Giết 02 người trở lên;
+ Giết người dưới 16 tuổi;
+ Giết phụ nữ mà biết là có thai;
+ Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
+ Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
+ Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
+ Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
+ Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
+ Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
+ Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
+ Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
+ Thuê giết người hoặc giết người thuê;
+ Có tính chất côn đồ;
+ Có tổ chức;
+ Tái phạm nguy hiểm;
+ Vì động cơ đê hèn.
- Trường hợp phạm tội không thuộc các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Thông thường, nếu đánh người và gây thương tích cho người khác, người vi phạm sẽ bị phạt hành chính từ 02 - 03 triệu đồng (theo điểm b khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích với mức phạt tù lên đến 20 năm hoặc tù chung thân tùy theo tỷ lệ thương tích.
Tuy nhiên, nếu không đơn thuần chỉ đánh người mà đồng thời còn đe dọa, ép buộc hoặc trực tiếp lấy tài sản người vay để trừ nợ thì hành vi này còn có thể cấu thành Tội cướp tài sản tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015.
Đối với trường hợp đánh con nợ để đòi nợ nhưng không lấy được tiền có phạm tội cướp tài sản hay không thì phải xem có đủ căn cứ cấu thành tội này hay không, tại Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về Tội cướp tài sản.
Theo đó hành vi đánh con nợ để đòi nợ được xem là hành vi cố ý gây thương tích, tuy nhiên cần xem xét từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ thương tật gây ra cho con nợ mà có đủ căn cứ cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không.
Theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bởi khoản 22 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:
- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Theo đó hành vi đánh con nợ để đòi nợ được xem là hành vi cố ý gây thương tích, tuy nhiên cần xem xét từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ thương tật gây ra cho con nợ mà có đủ căn cứ cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, những người cùng đánh con nợ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích theo Điều 134. Tội này có khung hình phạt từ 6 tháng đến 10 năm tù.
Để xác định mức hình phạt đối với từng người, Tòa án sẽ căn cứ vào các yếu tố sau:
+Mức độ thương tích mà con nợ bị gây ra.
+Vai trò, hành vi của từng người trong vụ án.
+Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nếu những người cùng đánh con nợ có vai trò ngang nhau, cùng thực hiện hành vi phạm tội, thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với cùng mức hình phạt. Tuy nhiên, nếu có người có vai trò chủ mưu, cầm đầu, thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt cao hơn.
Trên đây là những thông tin xoay quanh đề tài chiếm đoạt quyền tác giả của người khác. Để có thể được hỗ trợ cũng như tìm hiểu thông tin, quy định của pháp luật về chiếm đoạt quyền tác giả của người khác, Quý khách có thể liên hệ NPLaw để được tư vấn bởi đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn