Quy định về yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con thay đổi theo từng thời kỳ khác nhau tại Việt Nam nhưng luôn dựa trên hai nguyên tắc cơ bản: Tự nguyện thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng, Tòa án sẽ đưa ra phán quyết khi các bên không đạt thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy làm sao để hiểu thế nào là yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là gì và những vấn đề liên quan xoay quanh Chứng chỉ hành nghề giám sát thi công xây dựng như thế nào? Hãy cùng NPLaw tìm hiểu về những quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này bên dưới nhé.
I. Thực trạng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hiện nay
Ly hôn là điều không ai mong muốn bởi nhiều hệ lụy mà nó mang lại. Một trong số đó là việc tranh chấp giành quyền nuôi con và thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn. Đây cũng là một loại tranh chấp về hôn nhân gia đình phổ biến. Bài viết nêu lên thực trạng của loại tranh chấp này, các quy định hiện hành của pháp luật về giải quyết tranh chấp và những vướng mắc trên thực tế; qua đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao nhận thức pháp luật của người dân về quyền nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.
Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định.
Yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là khi một người đòi hỏi người khác phải cung cấp sự hỗ trợ tài chính và chăm sóc cho con chung sau khi họ ly hôn. Yêu cầu này thường được đưa ra trong các vụ ly hôn hoặc tranh chấp quyền nuôi con. Mục đích của nó là đảm bảo rằng cả hai bên tiếp tục chịu trách nhiệm chăm sóc và hỗ trợ cho con chung sau khi họ không còn sống chung với nhau. Yêu cầu cấp dưỡng nuôi con có thể bao gồm việc trả tiền trợ cấp hàng tháng hoặc đóng góp vào việc chi tiêu liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục cho con chung.
Các trường hợp có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con bao gồm:
Quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thường được quy định theo luật và có thể khác nhau tùy theo quy định của từng quốc gia hoặc địa phương
Theo Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Đối tượng được cấp dưỡng gồm: Con chưa thành niên và con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 thì người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con cho đến khi con trưởng thành.
Đối với con đã thành niên, cha, mẹ vẫn có trách nhiệm phải cấp dưỡng nếu thuộc các trường hợp sau: Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động có thể là do sức khỏe yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự... Tuy nhiên, không có khả năng lao động phải đi kèm với điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình.
Theo Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định mức cấp dưỡng:
Theo Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định phương thức cấp dưỡng:
Theo khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ được thực hiện giữa cha, mẹ và con.
Theo Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con như sau: Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con
Đồng thời, theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn: "Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con."
Do đó, dù ly hôn hay ly thân thì chỉ cần không sống cùng con đều phải thực hiện cấp dưỡng cho con trong các trường hợp trên.
Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
- Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
+ Người thân thích;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Một số cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con như sau:
Theo Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Bộ luật Hình sự 2017) thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mà không thực hiện nghĩa vụ bị xử lý như sau:
Theo khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”
Theo Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Như vậy, theo quy định trên, người không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nuôi con. Việc người cha không cấp dưỡng nuôi con là do người mẹ không yêu cầu. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con không gắn liền với quyền lợi thăm nom con. Do vậy, người vợ lấy lý do không cấp dưỡng cho con để hạn chế vấn đề thăm nom con của người cha là không phù hợp quy định pháp luật.
Trên đây là tất cả các thông tin chi tiết mà NPLaw của chúng tôi cung cấp để hỗ trợ quý khách hàng về vấn đề yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp Quý Khách hàng còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến vấn đề nêu trên hoặc các vấn đề pháp lý khác thì hãy liên hệ ngay cho NPLaw để được đội ngũ chúng tôi trực tiếp tư vấn và hướng dẫn giải quyết.
Công ty Luật TNHH Ngọc Phú – Hãng luật NPLaw
Hotline: 0913449968
Email: legal@nplaw.vn
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn