Để đảm bảo lợi ích của con, khi nhận thấy người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bên còn lại có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, nếu con đủ từ 07 tuổi trở lên thì việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn phải tính đến nguyện vọng của con. Bài viết này NPLaw sẽ tư vấn về thủ tục thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn chi tiết nhất.
Căn cứ tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:
"2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con."
Như vậy, người có yêu cầu có thể thỏa thuận với vợ/chồng cũ về việc muốn giành lại quyền nuôi con. Nếu không thỏa thuận thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn nếu khi con đã đủ 07 tuổi thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Bên cạnh đó, tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn như sau:
“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự".
Vì vậy, nếu người có nhu cầu nuôi con thỏa thuận được với người trực tiếp nuôi con thì có thể yêu cầu Tòa nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú công nhận sự thỏa thuận đó để giành lại việc trực tiếp nuôi con. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì phải khởi kiện tại Tòa án và phải có căn cứ cho việc thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định.
Căn cứ theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về thay đổi người trực tiếp sau khi ly hôn thì trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức bao gồm người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ thì tòa án sẽ xem xét và có thể ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con dựa trên quyền lợi của con. Như vậy, rõ ràng chúng ta có quyền được yêu cầu tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, tuy nhiên cần phải chứng minh được một trong các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con
Vợ chồng có thể chủ động liên lạc với nhau để có thể thỏa thuận về việc ai là người trực tiếp nuôi con và điều kiện nuôi con như thế nào là tốt nhất. Việc thỏa thuận này phải xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên, xuất phải từ lợi ích của con và được thể hiện bằng văn bản.
Thứ hai, trường hợp không thỏa thuận được với nhau thì cần chứng minh được người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Điều này có nghĩa là là người có nguyện vọng nuôi con phải chứng minh được người còn lại không thể trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dạy con chung được. Và đồng thời chứng minh được điều kiện mà mình có để nuôi dạy con tốt hơn như chỗ ở ổn định, có công việc ổn định, có thu nhập, có mức lương cao hơn…
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. Và riêng con dưới 36 tháng sẽ giao cho mẹ nuôi trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện hoặc có thỏa thuận khác.
Theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình tranh chấp (không thỏa thuận được mà phải khởi kiện) hay yêu cầu (thỏa thuận được) về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đều thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết việc tranh chấp hoặc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Đồng thời, điểm i khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“i). Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn…”
Như vậy, thẩm quyền giải quyết thay đổi quyền nuôi con sau ly hôn là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi một trong hai bên thỏa thuận thay đổi nuôi con cư trú, làm việc hoặc Tòa án cấp huyện nơi người con đang cư trú.
- Đơn yêu cầu thay đổi quyền nuôi con hoặc đơn khởi kiện yêu cầu thay đổi quyền nuôi con.
- Quyết định, bản án ly hôn đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân/Hộ chiếu còn hạn, sổ hộ khẩu.
- Giấy khai sinh của con.
- Các chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện thay đổi quyền trực tiếp nuôi con (áp dụng trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được hoặc khởi kiện thay đổi quyền nuôi con khi người đang trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để nuôi con).
Bước 1: Nộp hồ sơ khởi kiện hoặc đơn yêu cầu về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn tại TAND quận/ huyện nơi vợ chồng đã ly hôn trước đây.
Bước 2: Sau khi nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu cùng hồ sơ hợp lệ Tòa án sẽ ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí.
Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án quận/ huyện và nộp biên lai tiền tạm ứng phí cho Tòa án .
Bước 4: Tòa thụ lý vụ án, tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung và ra bản án hoặc quyết định giải quyết
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định 130/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em quy định:
"Điều 21. Vi phạm quy định về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em:
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật;
b) Cha mẹ, người chăm sóc trẻ em không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, không thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em hoặc bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, cắt đứt quan hệ tình cảm và vật chất với trẻ em hoặc ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, trừ trường hợp bị buộc phải tạm thời cách ly trẻ em hoặc trẻ em được chăm sóc thay thế theo quy định của pháp luật.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em có hành vi cố ý bỏ rơi trẻ em."
Đối chiếu quy định trên, nếu có hành vi không quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng con, bỏ mặc con tự sinh sống sau ly hôn sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi nêu trên
Luật Hôn nhân Gia đình (HNGĐ) 2014 đã quy định về vấn đề giải quyết nuôi con sau ly hôn như sau: Hai bên vợ chồng có thể tự thoả thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con sau ly hôn và Tòa án sẽ căn cứ vào sự thoả thuận này để ra quyết định công nhận. Trong trường hợp hai bên vợ chồng không thỏa thuận được, Tòa án sẽ ra quyết định giao con cho một bên nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Pháp luật hôn nhân gia đình chưa đưa ra giải thích về cụm từ “quyền lợi về mọi mặt của con” và “lợi ích của con”. Tuy nhiên trên thực tế, Toà án thông thường sẽ dựa vào các yếu tố sau:
Điều kiện về tinh thần: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, sự yêu thương, tình cảm đối với con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn,...của cha mẹ. Những vấn đề như rượu chè, cờ bạc, ngoại tình,...thời gian hạn chế sẽ là yếu tố gây trở ngại cho việc giành quyền trực tiếp nuôi con;
Điều kiện về vật chất: ăn ở, sinh hoạt, điều kiện học tập... dựa trên nguồn thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ. Đây sẽ là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc giành quyền trực tiếp nuôi con.
Trong trường hợp con từ đủ 07 tuổi trở lên thì Toà án phải xem xét nguyện vọng của con, con mong được ở cùng ai. Tuy nhiên, song song với việc xem xét nguyện vọng này, Tòa án vẫn sẽ xem xét điều kiện chăm sóc con của cha, mẹ để ra quyết định về người trực tiếp nuôi con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, hiện nay pháp luật tôn trọng sự bình đẳng giữa hai vợ chồng về quyền nuôi con sau ly hôn mà không có sự phân biệt người khuyết tật hay không khuyết tật. Cha, mẹ là người khuyết tật vẫn có quyền nuôi con sau ly hôn nếu đáp ứng được những điều kiện chăm sóc, giáo dục con.
Căn cứ theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì sau khi ly hôn bố hoặc mẹ có quyền thay đổi người trực tiếp quyền nuôi con nếu bố, mẹ có sự thỏa thuận lại với nhau về quyền nuôi con hoặc bố, mẹ có quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn nếu có căn cứ chứng minh rằng người đang trực tiếp nuôi con không còn đáp ứng đủ điều kiện để nuôi con. Ngoài ra, nếu con của bạn đã trên 07 tuổi thì cùng với việc xem xét điều kiện của người trực tiếp nuôi con thì bạn phải tham khảo ý kiến của con có muốn ở với bố hoặc mẹ hay không.
Bên cạnh đó tại khoản 3 Điều 28 BLTTDS 2015 quy định về một trong những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Và khoản 3 Điều 29 BLTTDS 2015 cũng quy định về những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm: Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Mặt khác, căn cứ theo khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nhân dân quận, huyện nơi vợ/chồng đang cư trú hoặc đang đăng ký tạm trú có thẩm quyền giải quyết việc yêu cầu thay đổi quyền nuôi con.
CÔNG TY LUẬT TNHH NGỌC PHÚ
Tổng đài tư vấn và CSKH: 1900 9343
Hotline: 0913 41 99 96
Email: legal@nplaw.vn