Nhãn hiệu nổi tiếng và nhãn hiệu thông thường khác nhau như thế nào? Quy định pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng? Hãy theo dõi bài viết dưới đây để tìm hiểu
Nhãn hiệu nổi tiếng, hay còn gọi là thương hiệu nổi tiếng, là những tên gọi, biểu tượng hoặc thiết kế được công chúng rộng rãi nhận biết và gắn bó với một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể. Những nhãn hiệu này thường gắn liền với chất lượng, uy tín, và có giá trị thương mại cao.
Theo điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2023) thì nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam.
Hiện hành, theo khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2009, 2019), nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Theo Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì những tiêu chí được xem xét để đánh giá một nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm:
- Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;
- Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;
- Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;
- Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;
- Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
- Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
- Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;
- Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được quy định tại khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Theo đó, các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (được sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 và điểm c khoản 1 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022), có thể hiểu nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia các công ước, hiệp định quốc tế.
Theo Công ước Paris 1883, Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan tới thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam Liên minh Châu Âu (EVFTA), nhãn hiệu nổi tiếng được công nhận trên lãnh thổ Việt Nam có quyền được tôn trọng một cách bình đẳng với các nhãn hiệu nổi tiếng của quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Ngược lại, Việt Nam có nghĩa vụ đảm bảo tuân thủ các quy định chung của các công ước, hiệp định quốc tế đã tham gia đối với nhãn hiệu nổi tiếng.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng và thuộc về chủ sở hữu nhãn hiệu đó mà không cần thủ tục đăng ký.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Thông tư 23/2023/TT-BKHCN, để chứng minh quyền sở hữu của mình đối với nhãn hiệu và chứng minh nhãn hiệu đáp ứng các điều kiện để được coi là nổi tiếng, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể sử dụng các tài liệu chứng minh bao gồm các thông tin về:
- Phạm vi, quy mô, mức độ, tính liên tục của việc sử dụng nhãn hiệu, trong đó có thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử, thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;
- Số lượng quốc gia nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc được thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng;
- Danh mục các loại hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
- Phạm vi lãnh thổ mà nhãn hiệu được lưu hành, doanh số bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
- Số lượng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được sản xuất, tiêu thụ;
- Giá trị tài sản của nhãn hiệu, giá chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu;
- Đầu tư, chi phí cho quảng cáo, tiếp thị nhãn hiệu, kể cả cho việc tham gia các cuộc triển lãm quốc gia và quốc tế;
- Các vụ việc xâm phạm, tranh chấp và các quyết định, phán quyết của tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền;
- Số liệu khảo sát người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán, sử dụng và quảng cáo, tiếp thị;
- Xếp hạng, đánh giá uy tín nhãn hiệu của tổ chức quốc gia, quốc tế, phương tiện thông tin đại chúng;
- Giải thưởng, huy chương mà nhãn hiệu đã đạt được;
- Kết quả giám định của tổ chức giám định về sở hữu trí tuệ.
Tại điểm a khoản 3 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (Được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2019) quy định về căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu trí tuệ như sau:
a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
Theo đó, đối với các nhãn hiệu nổi tiếng thì không phải thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng sẽ được công nhận quyền sở hữu công nghiệp dựa vào cơ sở sử dụng.
Được quy định tại khoản 6 Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 “Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm.”
Như vậy, thời gian bảo hộ nhãn hiệu là 10 năm. Chủ sở hữu có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần 10 năm và có thể bảo hộ mãi mãi nếu chủ sở hữu làm thủ tục yêu cầu gia hạn trong vòng 06 tháng trước Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hết hiệu lực, chủ sở hữu nhãn hiệu phải nộp đơn yêu cầu gia hạn cho Cục Sở hữu trí tuệ.
Tại điểm 42.3 khoản 42 Thông tư 01/2007/TT-BKHCN, được sửa đổi bởi điểm a khoản 35 Điều 1 Thông tư 16/2016/TT-BKHCN có quy định về tài liệu chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu như sau:
Tài liệu chứng minh quyền sở hữu nhãn hiệu và chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu có thể bao gồm các thông tin về phạm vi, quy mô, mức độ, tính liên tục của việc sử dụng nhãn hiệu, trong đó có thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử, thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; số lượng quốc gia nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc được thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng; danh mục các loại hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu; phạm vi lãnh thổ mà nhãn hiệu được lưu hành, doanh số bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ; số lượng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được sản xuất, tiêu thụ; giá trị tài sản của nhãn hiệu, giá chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu…
Căn cứ vào quy định trên, có thể thấy một trong những tài liệu có thể dùng để chứng minh sự nổi tiếng của nhãn hiệu chính là số lượng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu đó đã được sản xuất, tiêu thụ.
Căn cứ Điều 87 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi khoản 13 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 có quy định sau:
Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
Căn cứ theo quy định trên, có thể thấy trường hợp hàng hóa của công ty do người khác sản xuất thì tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp vẫn có thể đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
Tuy nhiên, nếu nhãn hiệu đó là nhãn hiệu nổi tiếng thì sẽ được xác lập dựa trên căn cứ thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký.
Căn cứ tại điểm d khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì sử dụng dấu hiệu dưới dạng phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng mà không không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
Trường hợp được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì không bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
Trên đây là những thông tin xoay quanh đề tài nhãn hiệu nổi tiếng. Để có thể được hỗ trợ cũng như tìm hiểu thông tin, quy định của pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng, Quý khách có thể liên hệ NPLaw để được tư vấn bởi đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm.